Vào khoảng thế kỷ thứ 6, thứ 7 ở vùng Vân Nam (Trung Quốc), quốc gia Nam Chiếu ra đời.
Những cuộc tranh chấp giữa Nam Chiếu và các tộc người khác thường diễn ra sau đó, đã làm cho cả vùng Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương bất ổn định. Thời kỳ này đất Mường Thanh cũng trải qua nhiều biến động lớn. Thế kỷ 11-12, người Thái đen theo từ Mường Ôm, Mường Ai tràn xuống chiếm Mường Lò (Nghĩa Lộ) và từ Mường Lò thời gian sau đó, những cư dân này theo thủ lĩnh của mình là Pú Lạng Chượng để tràn qua Than Uyên, Văn Bàn… và cuối cùng làm chủ cả một vùng từ Mường Lò (Nghĩa Lộ) qua Mường La (Sơn La), tới Mường Thanh (Điện Biên).
Mường Thanh cổ còn có tên gọi là Song Thanh vì có hai mường: Thanh Nưa (Thanh trên) từ bản Noong Hét (hay Noong Hẹt) ngược về đầu nguồn sông Nậm Rốm và Thanh Tẩu (Thanh dưới) từ bản Noong Hét đến cuối sông Nậm Rốm.
Sang tới thế kỷ 15 (năm 1463) trấn Hưng Hóa được thành lập (bao gồm ba phủ: Quý Hóa, Gia Hưng, An Tây). Mặc dù vậy, các thủ lĩnh người Lự cơ bản vẫn làm chủ Mường Thanh. Từ 1466 về sau, vua Lê Thánh Tông đặt làm 12 thừa thừa tuyên, trong đó Hưng Hóa bao gồm 3 phủ, 4 huyện và 17 châu. Năm 1831, Minh Mạng đổi thành tỉnh Hưng Hóa, tỉnh lị đặt ở thị trấn Hưng Hoá huyện Tam Nông (nay thuộc Phú Thọ).
Thời Pháp thuộc, Hưng Hóa được chia thành các tỉnh Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái và tách một số huyện nhập vào Phú Thọ. Tên gọi Điện Biên do vua Thiệu Trị đặt năm 1841 từ châu Ninh Biên;
Điện nghĩa là vững chãi, Biên nghĩa là vùng biên giới, biên ải. Điện Biên tức là miền biên cương vững chãi của tổ quốc, Phủ Điện Biên (tức Điện Biên phủ) thời Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu. Tên gọi Điện Biên hay Điện Biên Phủ xuất hiện từ đó.
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta với sự kiện tấn công bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, nhưng phải đến năm 1890 thực dân Pháp mới đặt được ách cai trị ở Lai Châu (bao gồm Điện Biên và Lai Châu ngày nay). Lai Châu trừ Phong Thổ thuộc Đạo quan binh thứ Tư, trực tiếp nằm trong khu quân sự Vạn Bỳ. Trong suốt thời gian dài thống trị Lai Châu thực dân Pháp đặt Điện Biên dưới chế độ quân quản, đứng đầu châu Điện Biên là một võ quan. Ngày 7/5/1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam chính thức giành được độc lập từ tay thực dân Pháp.
Để tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc và tạo điều kiện cho các dân tộc ở Tây Bắc tiến bộ mau chóng về mọi mặt, Chính phủ Việt Nam đã quyết định lập trong phạm vi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khu vực tự trị của các dân tộc ở Tây Bắc, gọi là Khu tự trị Thái – Mèo.
Ngày 27 tháng 9 năm 1962, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa II đã quyết định thành lập lại 3 tỉnh Sơn La, Nghĩa Lộ và Lai Châu. Tỉnh Lai Châu lúc đó gồm 7 huyện: Điện Biên, Tuần Giáo, Tủa Chùa, Mường Tè, Mường Lay, Sìn Hồ và Phong Thổ và thị trấn Lai Châu. Khu tự trị lúc đó có diện tích 67.300 km², với số dân 438.000 người.
Ngày 26/11/2003, Quốc hội khóa X đã phê chuẩn việc điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh Lai Châu. Theo đó, tỉnh Lai Châu được chia tách thành hai tỉnh là Lai Châu mới và Điện Biên. Điện Biên mới, giàu và đẹp hơn. Tỉnh Điện Biên sau khi chia tách là một tỉnh biên giới miền núi thuộc vùng Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội 504km về phía Tây. Phía Bắc giáp tỉnh Lai Châu mới, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sơn La, phía Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía Tây và Tây Nam giáp Lào.
kỷ niệm 60 chiến thắng Điện Biên Phủ
Hoa Ban Điện Biên
Điện Biên nằm cách khá xa Hà Nội (vào khoảng 500km để tới Tp Điện Biên Phủ) do đó thời gian di chuyển tới Điện Biên khá dài. Hiện chỉ có 2 cách để tới Điện Biên là phương tiện đường bộ hoặc đường hàng không.
Từ Hà Nội tới Điện Biên (thành phố Điện Biên Phủ) vào khoảng 500km, với địa hình đèo núi thì các bạn sẽ mất khoảng 10-12 tiếng để di chuyển tới đây. Quãng đường chạy dọc QL6 đi qua rất nhiều địa điểm đẹp như Mai Châu, Mộc Châu, Sơn La… mà các bạn có thể dừng lại trước khi tới đây.
Xe giường nằm đi Điện Biên chạy hàng ngày tại Bến xe Mỹ Đình, thời gian xe chạy vào khoảng 12-13 tiếng. Đi bằng xe giường nằm có một lợi thế nữa là có thể gửi xe máy kèm theo. Nếu không thích đi bằng ô tô các bạn cũng có thể lập lịch trình đi xe máy thẳng từ Hà Nội lên Điện Biên, với chặng đường khoảng 500km bạn sẽ mất nguyên một ngày để di chuyển thẳng.
Xem thêm bài viết: Xe khách đi Điện Biên (Cập nhật 12/2020)
Hiện tại Vasco (một hãng con của Vietnam Airlines) là hãng duy nhất khai thác đường bay Hà Nội – Điện Biên, máy bay sử dụng cho đường bay này là ATR 72 với tần suất 2 chuyến một ngày. Thời gian bay lên tới Điện Biên chỉ khoảng 1 tiếng nên sẽ tiết kiệm hơn rất nhiều so với việc đi bằng ô tô.
Từ Sài Gòn các bạn cần đáp chuyến bay ra Hà Nội rồi lựa chọn tiếp phương án di chuyển. Nếu định bay tiếp lên Điện Biên, các bạn có thể lựa chọn chuyến từ Sài Gòn ra trước thời điểm bay khoảng 2 tiếng và nghỉ ngơi luôn tại sân bay trước khi bay tiếp lên Điện Biên. Nếu lựa chọn phương tiện ô tô, các bạn có thể lựa chọn bay các chuyến chiều rồi buổi tối lên xe đi Điện Biên luôn.
Là một địa điểm du lịch khá nổi tiếng tuy nhiên đặc thù Điện Biên lại là nơi thu hút được đông đảo khách du lịch lớn tuổi đến thăm khu di tích Điện Biên Phủ nên phương tiện đi lại ở Điện Biên chủ yếu vẫn là taxi. Có một số đơn vị bắt đầu mở dịch vụ cho thuê xe máy tại Điện Biên nhưng chưa nhiều, các bạn có thể tham khảo trong bài viết dưới đây
Xem thêm bài viết: Thuê xe máy tại Điện Biên (Cập nhật 12/2020)
Với diện tích rộng, trải dài, các huyện ở rất cách xa nhau nhưng hệ thống cơ sở lưu trú tại Điện Biên lại khá đầy đủ. Tất cả các huyện đều có các khách sạn, nhà nghỉ để có thể phục vụ du khách trên cung đường khám phá Điện Biên. Riêng tại Tp Điện Biên Phủ, có gần 100 cơ sở lưu trú với đủ các loại hình khách sạn, nhà nghỉ, homestay có thể đón tiếp hàng ngàn lượt khách du lịch đồng thời.
Một số khách sạn tốt ở Điện Biên
Khách sạn Ruby
Địa chỉ: 43 Nguyễn Chí Thanh, Mường Thanh, Tp Điện Biên Phủ, Điện Biên
Điện thoại: 0215 3835 568
Homestay Muong Thanh
Địa chỉ: Hoàng Công Chất, Mường Thanh, Tp Điện Biên Phủ, Điện Biên
Điện thoại: 098 675 68 99
Pha Din Hotel
Địa chỉ: Số 63, Tổ 3, Thanh Bình, Tp Điện Biên Phủ, Điện Biên
Điện thoại: 0215 6558 888
Dien Bien Rose Villa
Địa chỉ: 80 Tổ 18, Tân Thanh, Tp Điện Biên Phủ, Điện Biên
Điện thoại: 091 135 55 77
Phuong Nam Hotel
Địa chỉ: Số nhà 211, Tổ 3 Phường Tân Thanh, Tp Điện Biên Phủ, Điện Biên
Điện thoại: 0215 6256 256
Xem thêm: Khách sạn ở Điện Biên Phủ (Cập nhật 12/2020)
Các bạn chú ý, nếu có ý định đi du lịch Điện Biên vào thời điểm dịp 7-5 hàng năm thì luôn nhớ phải đặt phòng khách sạn thật sớm từ trước 1-2 tháng. Dịp này hàng năm thường có lễ kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, các đoàn từ khắp nơi kéo về và thường xuyên thuê phòng số lượng lớn nên luôn trong tình trạng cháy phòng.
Là một tỉnh vùng cao Tây Bắc với rất nhiếu sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo, các bạn tới Điện Biên có thể lựa chọn nghỉ ngơi tại các bản làng làm du lịch, thường ở đây luôn có rất nhiều homestay của người dân địa phương được kết hợp làm du lịch, biến thành nơi lưu trú cho du khách có nhu cầu.
Khu di tích chiến trường Ðiện Biên Phủ là một quần thể các di tích lịch sử ghi lại chiến công của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược. Các di tích nổi bật của chiến trường Ðiện Biên năm xưa là đồi A1, C1, C2, D1, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, đồi Ðộc Lập, cầu và sân bay Mường Thanh, hầm chỉ huy của tướng Ðờ Catri.
Quần thể tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ gồm 3 bộ đội đứng quay lưng vào nhau, nâng một em bé Thái, trên cùng là lá cờ quyết chiến quyết thắng. Tượng có chiều cao 16,6m, chất liệu bằng đồng thau, trong ruột kết cấu bê tông cốt thép, trọng lượng 220 tấn. Bệ tượng cao 3,6m kết cấu bêtông cốt thép, bên ngoài ốp đá mỹ nghệ, gồm 3 tầng hình chữ nhật xếp chéo lên nhau. Do nhà điêu khắc Nguyễn Hải – người từng được trao giải thưởng Hồ Chí Minh thiết kế trên cơ sở tượng Điện Biên Phủ của ông trong thập niên 60 (1960 – 1965).
Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được đặt trên đồi D1 nằm ở vị trí trung tâm thành phố Điện Biên Phủ – tỉnh Điện Biên. Trên cơ sở tham khảo ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng việc thực hiện một kế hoạch khảo sát, Viện Quy hoạch Đô thị – Nông thôn (Bộ Xây dựng) đã đề xuất chọn địa điểm đồi D1. Nằm ở vị trí trung tâm khu di tích, cao khoảng 50m so với cánh đồng Mường Thanh, đây là địa điểm mà cả khu vực thị xã đều nhìn thấy …
Ngày 23 tháng 2 năm 2004 tượng đài “Chiến thắng Điện Biên” được chia thành 12 phần đã được 11 chiếc xe rơmooc siêu nặng vận chuyển từ Nam Định đưa về thành phố Điện Biên.
Đồi A1 nằm ở phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, là cứ điểm quan trọng bậc nhất trong tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Đồi A1 nằm dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bao gồm 2 đỉnh: Tây Bắc cao hơn 490m, Đông Nam cao hơn 493m. A1 là ký hiệu mà quân đội Việt Nam đặt cho quả đồi. Sáng ngày 7/5/1954 quân đội Việt Nam đã chiếm được đồi A1.
Hiện nay, trên đỉnh Tây Bắc của đồi A1 có đài kỷ niệm được xây theo kiểu “Tam sơn”, ở giữa cao, hai bên thấp và đều có hình mái đầu đạo. Phía trước là lư hương, ở giữa là tấm bia, phù hiệu Quốc kỳ, sao vàng nền tròn đỏ, xung quanh là vòng tương hoa.
Bên cạnh đài kỷ niệm là xác một trong hai chiếc xe tăng nặng 18 tấn được Quan Ba Hécvuê đưa từ trung tâm Mường Thanh lên để phản kích quân đội Việt Nam. Một di tích quan trọng nữa là cái hố hình phễu to bằng cái “ao đình” cạn. Đó là dấu tích trận nổ khối bộc phá nghìn cân của quân ta mà chiến sĩ ta thường gọi “đào hầm để trị hầm”, trị cả hầm, cả lô cốt cố thủ của giặc.
Nghĩa trang liệt sỹ A1, nằm cách điểm di tích lịch sử đồi A1 (thành phố Điện Biên Phủ) vài trăm mét về phía nam, được xây dựng năm 1958.
Nơi đây có 644 ngôi mộ là những cán bộ, chiến sỹ quân đội đã hy sinh anh dũng trong chiến dịch Điện Biên Phủ hầu hết là các ngôi mộ vô danh, chỉ có 4 ngôi mộ có tên là các anh hùng liệt sỹ: Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Trần Can. Không gian Nghĩa trang rất yên tĩnh, không khí trong lành, môi trường xanh, sạch, đẹp. Hàng ngày, nghĩa trang mở cửa từ sáng đến chiều tối để đón du khách từ các tỉnh trong nước và quốc tế viếng thăm.
Hầm chỉ huy của tướng Đờ Cát nằm ở trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thuộc cánh đồng Mường Thanh, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Cấu trúc và cách bố trí, sắp xếp của căn hầm vẫn còn được giữ nguyên. Xung quanh hầm là hàng rào phòng thủ với hệ thống dây kẽm gai dày đặc và bốn chiếc xe tăng. Hầm Đờ Cát dài 20m và rộng 8m, bao gồm bốn gian dùng cho cả nơi ở và làm việc.
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ nằm trong một khu rừng nguyên sinh tại địa phận xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ 25 km về phía đông. Đây là nơi làm việc của các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái… Gần với Sở chỉ huy có đài quan sát trên đỉnh núi độ cao trên 1.000m, từ đài quan sát này có thể bao quát hoạt động và diễn biến ở thung lũng Mường Thanh. Sở chỉ huy gồm:
Bảo tàng Điện Biên tọa lạc tại Phố 1, P Mường Thanh, Tp Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Bảo tàng Điện Biên Phủ được xây dựng vào năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Vào cuối năm 2003, bảo tàng Điện Biên Phủ đã tiến hành nâng cấp và chỉnh lý lại khu trưng bầy. Đến nay bảo tàng có 5 khu trưng bầy với 274 hiện vật và 122 bức tranh theo từng chủ đề sau:
Được Pháp gọi là cầu “Prenley”, là cây cầu bắc qua sông Nậm Rốm, ở địa điểm cách ngã ba đường 279 hiện nay khoảng 300 m. Cây cầu là một công trình quân sự nằm trong phân khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Cầu sắt Mường Thanh là chiếc cầu dã chiến được làm sẵn và vận chuyển từ nước Pháp sang lắp ghép tại Điện Biên. Toàn bộ cây cầu dài 40m, rộng 5m. Hai bên thành cầu là những thanh sắt chống đỡ đơn giản không có trục giữa, sàn cầu lát bằng gỗ, dưới là những thanh dầm bằng sắt được liên kết với nhau rất chắc chắn.
Từ lâu, câu truyền khẩu “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” đã ăn sâu trong tiềm thức của mỗi người dân Tây Bắc với ngụ ý xếp hạng các cánh đồng. So với cánh đồng Mường Lò, Yên Bái; cánh đồng Mường Than, Lai Châu, cánh đồng Mường Tấc, Sơn La, cánh đồng Mường Thanh, Điện Biên được đánh giá là rộng lớn nhất. Nằm trên độ cao hơn 400 m so với mặt nước biển, cánh đồng Mường Thanh trải dài hơn 20 km với chiều rộng trung bình 6 km.
Nằm giữa lòng chảo Điện Biên, cánh đồng Mường Thanh được ví như một “cái kho” khổng lồ chứa đầy ngô lúa. Từ cuối tháng 9, lúa mùa khu vực lòng chảo Mường Thanh bắt đầu chín rộ, khiến du khách ghé thăm ngỡ như đi giữa mùa vàng. Một cảm giác thân thuộc của cánh đồng quê Bắc Bộ trải dài ngút mắt, nhưng vẻ đẹp kiêu hùng của cánh đồng lúa bốn bề núi bọc cũng chẳng hề xen lẫn.
Không chỉ nổi tiếng về diện tích mênh mông, với điều kiện thâm canh thuận lợi, cánh đồng Mường Thanh còn mang đến cho đời những hạt ngọc thơm ngon đặc biệt với thương hiệu gạo Điện Biên nổi tiếng. Hạt gạo nhỏ, có hương thơm tự nhiên, khi nấu cơm trắng, dẻo ngọt và có vị đậm đà. Hạt gạo từ cánh đồng Mường Thanh đã mang đến vẻ đẹp trù phú cho vùng đất Điện Biên vốn vang danh với những chiến công hiển hách.
Nói đến cánh đồng “Nhất Thanh” không thể không nhắc đến dòng sông Nậm Rốm đầy ắp phù sa, bồi đắp ngày ngày. Từ góc độ nào, sông Nậm Rốm cũng hiện ra như một nét vẽ xanh biếc giữa bức tranh lúa đồng rộng lớn. Hai bên bờ cây cối xanh mướt, điểm tô những chùm hoa chuối sắc đỏ lung linh, nghiêng mình soi bóng. Bắc qua sông Nậm Rốm là cầu Mường Thanh yên bình và thơ mộng. Hiện cầu chỉ dành cho xe đạp, xe máy và người đi bộ, nhiều người đến đây để tìm về quá khứ oanh liệt một thời.
Du lịch cộng đồng ngày càng được nhiều khách trong nước và quốc tế lựa chọn làm loại hình du lịch yêu thích. Đến với Điện Biên, các bạn có thể trải nghiệm du lịch cộng đồng tại các bản văn hóa du lịch. Tại đây, các bạn sẽ được hòa mình vào không gian sống của bà con dân tộc thiểu số, tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, giàu sắc thái bản địa vùng cao Tây Bắc, thưởng thức những điệu dân ca, dân vũ độc đáo và khám phá văn hóa ẩm thực với những món ngon do chính người dân tại các bản chuẩn bị.
Nằm nép mình giữa bạt ngàn núi đồi và ruộng nương, bản Mển (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) được biết đến như một điểm du lịch cộng đồng hấp dẫn, thu hút nhiều du khách trong nước và quốc tế. Từ TP. Điện Biên Phủ, theo quốc lộ 12 khoảng 6km về phía bắc, du khách sẽ đến bản Mển.
Nhìn từ xa, bản Mển đẹp như một bức tranh với lưng tựa núi, mặt hướng ra cánh đồng rộng mênh mông. Nổi bật trên nền xanh của cây cối và bầu trời là những nếp nhà sàn truyền thống của người Thái đen. Không chỉ hấp dẫn du khách bởi khung cảnh tuyệt đẹp, bản Mển còn có không khí trong lành, mát mẻ và môi trường xanh, sạch và đẹp.
Bản có hơn 110 hộ dân với hơn 500 nhân khẩu, đều là người dân tộc Thái đen. Đồng bào Thái đen ở đây sống bằng nghề trồng lúa, hoa màu, chăn nuôi và dệt, thêu thổ cẩm truyền thống.
Những năm vừa qua, dân bản đã chung tay phát triển du lịch cộng đồng gắn với xây dựng nếp sống văn minh, ăn sạch, ở sạch, uống sạch. Nhờ đi đúng hướng trong việc phát triển du lịch cộng đồng bền vững nên bản Mển không những đã trở thành điểm du lịch thu hút đông du khách trong và ngoài nước mà còn bảo tồn, phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống, trong đó có nghề dệt, thêu thổ cẩm. Nếu như trước đây, phụ nữ trong bản dệt, thêu thổ cẩm chỉ để cho gia đình dùng, thì nay còn phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch. Sản phẩm thổ cẩm của bản thường là những tấm vải, chiếc khăn piêu hay chiếc túi với dòng chữ thêu “Thổ cẩm bản Mển kỷ niệm” nhằm quảng bá nét văn hóa đặc trưng của bản tới du khách.
Bản Ten nằm cách thành phố Điện Biên chừng 2 km, có chừng gần 100 hộ dân với vài trăm người.Nghề chính của người dân ở đây là trồng lúa và chăn nuôi, nhưng dịch vụ du lịch đang dần trở thành nguồn thu nhập ổn định cho bà con, mặc dù chưa cao.Trong số 20 bản của toàn tỉnh Điện Biên có đội văn nghệ không chuyên, thì đội văn nghệ của bản Ten thu hút nhiều khách du lịch và cũng đắt hàng nhất. Những bài hát dân ca Thái như Xòe thương nhau, Người đẹp Mường Ten, Điệu xòe có tự bao giờ, các điệu khèn lá, khèn bè, độc tấu khèn; những điệu xòe, múa sạp do các diễn viên “cây nhà lá vườn” trình diễn luôn có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách.
Từ di tích lịch sử hầm Đờ Cát, xuôi theo sông Nậm Rốm về hướng tây bắc khoảng 8km, du khách sẽ tới bản Co Mỵ.
Co Mỵ theo tiếng Thái có nghĩa là cây mít. Tương truyền, khi người Thái về định cư tại bản, thấy nơi đây có cây mít to chừng vài người ôm, quả thơm ngon nên đã đặt tên bản là Co Mỵ. Năm 1945, một vụ hỏa hoạn lớn đã thiêu rụi nhiều nhà sàn và cây mít cổ thụ. Đến nay, cây mít tuy không còn nhưng dân bản vẫn luôn nhớ về nguồn gốc tên gọi của bản.
Bản Co Mỵ có diện tích tự nhiên khoảng 60ha, là nơi cư trú của hơn 100 hộ dân tộc Thái, sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, rau màu và chăn nuôi.
Bản Phiêng Lơi có tổng diện tích tự nhiên là 112,4ha. Theo tiếng địa phương, “phiêng” nghĩa là nơi bằng phẳng, còn “lơi” là cách nói chệch đi của từ đời. Cái tên Phiêng Lơi đã nói lên mong ước định cư lâu dài của người dân khi đến vùng đất này dựng nhà, lập bản.
Cũng giống như nhiều bản người Thái khác ở Điện Biên, dân bản Phiêng Lơi làm nhà sàn hướng mặt ra sông, suối, cánh đồng. Nhìn từ xa, bản Phiêng Lơi giống như một bức tranh thủy mặc với những nếp nhà sàn truyền thống nằm san sát nhau bên dòng Nậm Rốm hiền hòa chảy suốt ngày đêm; bao quanh là núi rừng hùng vĩ trùng trùng, điệp điệp.
Từ xưa đến nay, người Thái ở Phiêng Lơi vẫn sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, đan lát và dệt thêu thổ cẩm truyền thống. Những năm qua, nhờ định hướng của tỉnh Điện Biên, bản Phiêng Lơi đã bắt đầu phát triển loại hình du lịch cộng đồng để đáp ứng nhu cầu của du khách tham quan. Đến nay, cả bản đã có 30 hộ dân tham gia loại hình du lịch cộng đồng, trong đó 15 người đã được tập huấn nâng cao nhận thức về loại hình du lịch này. Hình thức du lịch cộng đồng ở bản Phiêng Lơi không những góp phần nâng cao đời sống cho dân bản mà còn bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống như: văn nghệ dân gian, văn hóa ẩm thực, lễ hội, nghề thủ công…
Khu du lịch U Va thuộc xã Noọng Luống, huyện Điện Biên, cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ khoảng 15km về phía Tây Nam. U Va có địa thế núi non trùng điệp, tổng diện tích trên 73.000m2 với dòng suối khoáng nóng tự nhiên, nhiệt độ trung bình từ 76- 84 độ C.
Suối khoáng nóng có tên là “UVa” được bắt nguồn từ phiên âm chữ “Ú Vá” của người dân địa phương xã Noọng Luống. Trong đó, Ú được dịch là bà; Vá có nghĩa là cái nôi. Theo truyền thuyết, suối khoáng nóng này chính là một bà tiên nằm trên một cái nôi đẹp. Phong cảnh U Va trên là đồi núi, dưới là sông, suối, hồ. Trước năm 2002, toàn bộ khu vực xã Noọng Luống – nơi có dòng suối khoáng nóng U Va chảy qua là một bãi cỏ. Sau khi khảo sát, tỉnh Điện Biên đã tận dụng nguồn suối nước khoáng thiên nhiên, đưa lên khu vực trên đồi cao
Suối khoáng nóng Hua Pe thuộc xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ 5km về phía Tây Bắc. Tại đây có nguồn nước khoáng lớn với nhiệt độ thường xuyên khoảng 60°C, bên cạnh là hồ nước nhân tạo Pe Luông quanh năm lộng gió, hình thành nên điểm du lịch Điện Biên sinh thái tắm nước khoáng nóng, là một trong những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn với các dịch vụ như nghỉ dưỡng, chữa bệnh ngày càng thu hút du khách gần xa.
Cửa khẩu Tây Trang là một cửa khẩu quốc tế tại vùng đất bản Ka Hâu xã Nà Ư huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên, Việt Nam. Cửa khẩu Tây Trang thông thương sang cửa khẩu Sop Hun (Sốp Hùn), huyện May tỉnh Phongsaly, CHDCND Lào.
Cửa khẩu Tây Trang là điểm kết thúc của quốc lộ 279 trên đèo Tây Trang sang Lào. Đây cũng là cửa khẩu được giới du lịch bụi lựa chọn nếu định mang xe máy qua và chạy dọc đất nước Lào.
Thành Bản Phủ nằm ở xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ khoảng 9 km.. Đây là một kỳ tích về xây dựng thành của họ Hoàng. Thành rộng hơn 80 mẫu. Sau lưng là sông Nậm Rốn. Tường thành đắp bằng đất, trồng tre gai vây quanh, loại tre được mang từ Thái Bình lên. Ngoài có hào sâu rộng 4-5 thước trên mặt thành ngựa, voi đi lại được. Thành có các cửa: tiền, hậu, tả, hữu. Mỗi cửa có đồn cao và vọng gác…
Đền thờ Hoàng Công Chất được xây ở trung tâm thành Chiềng Lê (tức Bản Phủ) để thờ họ Hoàng và 6 thủ lĩnh nghĩa quân – là di tích lịch sử văn hóa quan trọng của địa phương ghi lại công lao to lớn cửa người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất, người con của Thái Bình trong cuộc chiến tranh giải phóng Mường Thanh (Mường Then) – Điện Biên khỏi sự chiếm đóng của giặc Phẻ.
Hồ Pá Khoang thuộc địa phận xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ gần 20km, nằm kề quốc lộ 279, nối thành phố Điện Biên Phủ với Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ – Mường Phăng.
Hồ Pá Khoang nằm giữa một vùng thiên nhiên cảnh đẹp hùng vĩ, ẩn hiện trong mây trời non nước. Vào mùa đông sương mờ buông phủ tạo một phong cảnh huyền ảo, thấp thoáng nơi xa là những dãy núi trập trùng, những nếp nhà xinh xắn. Mùa hè không khí nơi đây thật dễ chịu với những luồng gió nam mát dịu. Trong khu vực lòng hồ có các bản dân tộc Thái, Khơ mú là những dân tộc còn giữ được các phong tục tập quán, nét đặc sắc của các dân tộc Tây Bắc vốn có… Nếu có dịp đến với Điện Biên, hãy dành chút thời gian ghé thăm hồ Pá Khoang để cùng hòa mình vào thiên nhiên.
Nhiều du khách trong nước và quốc tế khi đặt chân đến Điện Biên, đã biết tới Mường Phăng là Chỉ huy sở của quân đội Việt Nam trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Thế nhưng có mấy người biết được rằng, trên một hòn đảo giữa lòng hồ Pá Khoang, xã Mường Phăng ấy, có một vườn hoa Anh Đào giờ này đang nở rộ, đánh dấu cho tình hữu nghị giữa 2 dân tộc Việt Nam- Nhật Bản.
Cây Anh đào xuất hiện tại Điện Biên cũng là một điều khá thú vị. Ông Trần Lệ, 66 tuổi là Giám đốc Công ty cổ phần Công nghệ nông lâm Mường Phăng, ông chủ của “Đảo hoa” này kể lại: Trước đây, ông có quen một người Nhật Bản trong quan hệ kinh tế về chế biến, xuất khẩu nông sản. Do biết ông là một người nghiên cứu sinh học nên bên đối tác đã đưa cho 10 hạt giống cây Anh Đào để ươm tại Việt Nam. Mặc dù có nhiều cơ sở ở một số tỉnh thành trong cả nước, song ông vẫn quyết định đưa lên Mường Phăng để trồng thử vì điều kiện thổ nhưỡng vùng đất này khá phù hợp, hơn nữa vì đây là mảnh đất lịch sử nên có nhiều ý nghĩa. Với 10 hạt giống, từ năm 2006 ông đã ươm được 9 cây, trong đó bên phía bạn xin lại 5 cây. 4 cây còn lại trồng trên “Đảo hoa”, sau 3 năm đã bắt đầu ra hoa và kết quả.
Tuy nhiên do trồng từ hạt, nên giống hoa đã bị phân ly, không còn giữ được màu nguyên thủy. Từ số cây giống này, ông nhân tiếp thêm 500 cây nữa đang trồng tại vườn, trong đó 40 cây của đợt đầu tiên nay đã trổ hoa. Với 5ha đất được giao, ông Trần Lệ dự kiến sẽ “phủ” toàn bộ cả một “đảo hoa Anh Đào” giữa lòng hồ Pá Khoang. Ngoài ra, ông Lệ còn trao cho Sở Nông nghiệp tỉnh Điện Biên gần 600 cây giống để nhân rộng ra các địa phương khác trong tỉnh. Không chỉ trồng và nhân giống hoa Anh Đào, Công ty cổ phần Công nghệ nông lâm Mường Phăng hiện đang trồng và nghiên cứu trên 40 loài hoa khác, trong đó đã cho ra đời giống hoa Ly màu đỏ tươi mà chưa nơi nào trên thế giới có được, dự định sẽ đặt tên là Ly Mường Phăng.
Điểm văn hóa tâm linh Linh Sơn (Chùa Linh Sơn) được xây dựng tại xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, cách hầm Đờ Cát khoảng 1,5km với tổng diện tích hơn 4.600m2, bao gồm các hạng mục: Tam quan (dài 43m), đài tưởng niệm nằm trên 3 hồ nước có diện tích 63m2 được trồng sen, tòa nhà sinh hoạt văn hóa, bãi đỗ xe, khuôn viên cây bồ đề và bàn thờ Phật.
Động Pa Thơm thuộc xã Pa Thơm, nằm ở phía Tây huyện Điện Biên, giáp với biên giới Việt Lào. Nhân dân địa phương gọi là “Thấm Nang Lai” (hang nhiều nàng Tiên).
Động Pa Thơm nằm ở lưng chừng núi, cửa động hình mái vòm, cửa cao 12m, rộng 17m, mái đá nhô ra 7m. Chính giữa lối vào là một khối đá khổng lồ sừng sững giống như đầu voi đang rũ xuống. Chiều sâu động khoảng hơn 350m chạy theo hướng Nam. Động có 9 vòm lớn nhỏ, chiều ngang có chỗ rộng chừng 20m. Lối vào động giáp cửa hang có ba khối đá lớn chắn ngang nằm uốn lượn như một con trăn khổng lồ ngăn đôi động và tạo thành hai lối vào ra. Ngay từ ngoài cửa hang đã có nhiều nhũ đá với nhiều hình hài hết sức sống động, nhũ đá óng ánh, màu sắc huyền ảo, lung linh dưới ngọn nến. Các vòm động đều cao vút, mỗi vòm tựa như một tòa điện nguy nga, lộng lẫy, khối nhũ nhô lên, những măng đá đủ mọi hình tượng mềm mại từ trên mái trấn rủ xuống những tua rua óng ánh. Bên vách những khối đá như những dòng thác lớn đang chảy, óng ánh bạc.
Ngoài giá trị thắng cảnh, Động Pa Thơm còn được gắn với những huyền thoại, truyền thuyết đẹp về tình yêu đôi lứa, làm cho cảnh quan thêm chất thi ca và trở thành địa danh du lịch hấp dẫn.
Đèo Pha Đin hay Dốc Pha Đin là đèo núi có độ dài 32 km nằm trên quốc lộ 6, một phần thuộc xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La và một phần thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Điểm khởi đầu của đèo cách thị xã Sơn La về phía Tây 66 km còn điểm cuối của đèo cách thành phố Điện Biên khoảng 84 km. Đây cũng là một trong Tứ đại đỉnh đèo được dân Phượt tôn vinh, 3 đèo còn lại là Mã Pì Lèng, Ô Quý Hồ và Khau Phạ.
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô anh hò chị hát Dù bom đạn xương tan thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh
Tên gọi đèo Pha Đin nguyên gốc xuất xứ từ tiếng Thái, Phạ Đin, trong đó Phạ nghĩa là “trời”, Đin là “đất”hàm nghĩa nơi đây là chỗ tiếp giáp giữa trời và đất. Người Lai Châu cũ (nay là Điện Biên) và Sơn La từ xa xưa còn lưu truyền câu chuyện kể về cuộc bàn thảo tìm cách vạch định ranh giới của hai địa phương bằng một cuộc đua ngựa vượt dốc Pha Đin. Người và ngựa của cả hai phía đều đồng thời xuất phát từ hai dốc đèo. Hai dũng sĩ và hai con tuấn mã đều có sức mạnh và ý chí như nhau nên khoảng cách mà họ đi được cho tới địa điểm gặp nhau trên đèo không chênh lệch bao nhiêu. Tuy vậy, phần ngựa Lai Châu phi nhanh hơn nên phần đèo thuộc về Lai Châu dài hơn một chút so với phần phía Sơn La.
Cầu Hang Tôm cũ trước đây từng nổi tiếng là cầu dây văng đẹp nhất Tây Bắc, nối liền Mường Lay (Điện Biên) và Phong Thổ, Sìn Hồ của Lai Châu. Sở dĩ cầu có tên Hang Tôm là do khúc sông này xưa kia có quá nhiều tôm. Cách cầu chừng 50m có một “mó” nước rất mát, tôm từ sông Đà lũ lượt lên đó đẻ trứng, cả một khúc sông dày đặc tôm là tôm. Ngày ngày bà con thay nhau lên đó bắt về ăn. Nhưng người dân quanh khu vực này có tục lệ bất thành văn, mỗi nhà chỉ được bắt chừng một tiếng đồng hồ rồi nhà khác tiếp tục.
Cuối những năm 1960, cầu Hang Tôm bắt đầu được tiến hành xây dựng. Ngày đó, chuyên gia và công nhân Trung Quốc cũng qua giúp ta làm cầu. Tuy nhiên, đến năm 1968, Trung Quốc xảy ra cách mạng văn hóa, chuyên gia và công nhân của họ rút hết về nước. Rất may khi đó hạng mục được coi là khó nhất là cáp treo đã được kéo xong, chỉ còn lại các công đoạn hoàn thiện.
Nhưng cũng phải mãi đến năm 1973, cầu Hang Tôm mới được khánh thành. Ngày đó thật sự là ngày hội lớn của hàng vạn đồng bào Tây Bắc. Hàng ngàn người từ khắp nơi cơm đùm, cơm nắm, đi bộ vài ngày đường đổ về để tận mắt được nhìn, được một lần đi qua cây cầu mơ ước.
Hang Tôm như một điểm nhấn cho vùng Tây Bắc. Cũng bởi vẻ đẹp hoành tráng và hoang sơ của cầu Hang Tôm nên những năm sau này, dân du lịch, Tây cũng như ta, đã đổ về đây, nhất là từ khi xuất hiện phong trào du lịch bụi.
Tháng 11/2012 thủy điện Sơn La tích nước, toàn bộ Thị xã Mường Lay cũ trong đó bao gồm cả cây cầu Hang Tôm đã chìm sâu dưới lòng hồ Sông Đà, chấm dứt 40 năm hoạt động của cây cầu lịch sử. Ngay gần vị trí cầu Hang Tôm cũ, một cây cầu mới được dựng lên để thay thế nhiệm vụ, cao hơn cây cầu cũ 70m.
Mường Lay là cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Điện Biên nối với tỉnh Lai Châu, là mảnh đất đã trải qua bao thăng trầm lịch sử. Mường Lay hôm nay dù vẫn còn đâu đó những đau đớn của một thời quá khứ bởi sự tàn phá vô tình của thiên nhiên nhưng đang thay da đổi thịt từng ngày với công cuộc tái định cư Thủy điện Sơn La.
Trong những năm gần đây, Mường Lay đang vươn mình trong xây dựng, phát triển và đã mang dáng dấp của một đô thị ven sông. Mường Lay nằm hai bên bờ sông Đà được nối liền bởi những cây cầu dài, dưới là lòng hồ thủy điện rộng lớn đã tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình. Trong tương lai, Mường Lay xứng đáng trở thành trung tâm du lịch phía Bắc của tỉnh Điện Biên, là điểm dừng chân lý tưởng của hành trình Du lịch vòng cung Tây Bắc đối với mọi bạn.
Từ khi công trình thuỷ điện Sơn La được hoàn thành, mực nước lòng hồ dâng cao khoảng 213m, diện tích rộng chừng 100ha đã tạo ra cho Mường Lay một cảnh quan du lịch sinh thái cực kỳ hấp dẫn, trên là núi dưới là hồ được ví như một Hạ Long trên cạn.
Với khí hậu mát mẻ và trong lành của núi rừng Tây Bắc, Mường Lay chính là nơi giao thoa của đất trời và sông núi, của quá khứ và hiện tại. Dòng sông Đà hung dữ năm xưa giờ đây trở nên hiền hòa, phẳng lặng và xanh mênh mông tạo cho người thưởng ngoạn cảm giác thật thoải mái, nhẹ nhàng và tưởng như đang giao hòa với thiên nhiên, đất trời, non nước.
Đến với Mường Lay, không nên bỏ lỡ cơ hội du ngoạn bằng thuyền trên lòng hồ, để được đắm mình với thiên nhiên mênh mông sông nước, trùng điệp núi rừng, được nghe những câu chuyện đậm sắc màu huyền sử kể về dòng Đà giang hung dữ xưa kia. Trên đường đi vãn cảnh lòng hồ, bạn có thể ghé qua đất Lai Châu để thăm và tìm hiểu về dinh thự Đèo Văn Long, thăm mô hình nuôi cá lồng của người dân bản địa. Đặc biệt nơi đây cũng luôn hấp dẫn đối với những bạn thích khám phá và ưa mạo hiểm với các hoạt động như câu cá trên sông Đà, leo núi khám phá Hang bản Bắc hay đi bộ xuyên rừng tới thăm các bản làng xa xa nằm ẩn mình bên vách núi.
Mường Lay không chỉ hấp dẫn bạn bởi cảnh quan thiên nhiên thơ mộng mà còn lôi cuốn lòng người bởi nét văn hóa đa dạng và độc đáo của 9 dân tộc anh em sinh sống. Mỗi dân tộc nơi đây đều mang bản sắc văn hóa riêng, tạo nên một bức tranh văn hóa hết sức phong phú, đa dạng với những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể đặc trưng. Mảng văn hóa tiêu biểu nhất ở Mường Lay chính là văn hóa của dân tộc Thái trắng. Mường Lay được xem là thủ phủ của người Thái trắng ở Điện Biên, là một trong những cái nôi của điệu múa nón, múa chai, múa quạt duyên dáng đã đi vào tiềm thức con người và thơ ca.
Để hiểu rõ hơn bản sắc văn hóa và cuộc sống của người dân nơi đây, bạn có thể thăm quan các làng nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, chế tác nhạc cụ dân tộc ở phường Na Lay, sản xuất và chế biến đồ gỗ ở phường Sông Đà hay nghề đan lát đồ gia dụng ở xã Lay Nưa. Tối đến, dừng chân trong những nếp nhà sàn truyền thống, bạn có thể thưởng thức những món đặc sản hấp dẫn như măng đắng, nộm hoa ban, gỏi cá, lạp, pa pỉnh tộp, đặc biệt không thể không kể đến món cá lăng, cá chiên và tôm sông Đà nổi tiếng khắp vùng. Hòa trong hương rượu ngô thơm ngọt, men say ngây ngất, bạn và người dân bản địa cùng theo vòng quay của điệu xòe, thả hồn theo giọng hát ngọt ngào của những cô gái Thái. bạn cũng có thể cùng sống, sinh hoạt trong các gia đình để tìm hiểu phong tục tập quán của người dân nơi đây và trải nghiệm cảm giác được một lần là “người dân tộc Thái”.
Xá Nhè là xã nằm ở phía Nam của huyện Tủa Chùa, được nhiều người biết đến với chợ phiên Xá Nhè, rượu Mông Pê, đặc biệt còn có phong cảnh thiên nhiên kỳ thú, tiêu biểu là thắng cảnh hang động Xá Nhè. Động Xá Nhè được người dân tộc Mông địa phương gọi là Khó Xo (nghĩa là hang thuốc nổ vì trước đây ở trong hang có nhiều dơi, người dân địa phương thường lấy phân dơi để làm thuốc nổ).
Động Xá Nhè nằm dưới chân một vách nui cao dựng đứng, cách trung tâm xã Sáng Nhè khoảng 1km. Động Xá Nhè nằm trong khung cảnh thiên nhiên hết sức đẹp và hùng vĩ. Màu xám thâm trầm của những khối núi đá hòa vào màu xanh của rừng, màu vàng của lúa nương những ngày vào vụ. Mặc dù động khá gần trung tâm xã Sáng Nhè song quanh động không có nhiều dân cư quần tụ. Núi non, cây cỏ vẫn giữ nguyên vẻ đẹp tự nhiên, mang lại cho du khách đến thăm động cảm giác như đang tự mình khám phá một nơi nguyên sơ đầy thú vị.
Động dài 700m, gồm 5 khoang lớn nhỏ khác nhau. Mỗi khoang đều có một vẻ đẹp kì bí riêng. Khoang bên ngoài có hình vòm cung, trên trần động là những khối nhũ đá rủ xuống lấp lánh với đường nét khi thì mềm mại, uyển chuyển như thác nước, lúc mang dáng vẻ sắc nhọn như san hô biển. Từng khối thạch nhũ như những dòng thác đang tuôn chảy với vô số hạt kết tinh sáng lấp lánh. Dưới nền động là những rừng măng đá, nhũ đá muôn hình muôn vẻ với nhiều hình thù kỳ lạ. Toàn cảnh khoang bên ngoài trông như một bức tranh sơn dầu khổng lồ vẽ phong cảnh thiên nhiên hoang sơ.
Càng vào trong, động càng lộng lẫy bởi hằng hà sa số những đường nét, hình dáng do thạch nhũ, măng đá tạo nên. Tuy đều là những tác phẩm điêu khắc tự nhiên làm từ đá nhưng vẻ đẹp của mỗi khoang động không hề giống nhau, tạo cho người xem sự thú vị và kích thích trí tò mò, đam mê khám phá. Khoang thứ 2 êm đềm với những khung cảnh giả tưởng, cách điệu như cảnh làng quê mộc mạc với sông suối, ao hồ, ruộng bậc thang…; khoang 3 nổi bật với 2 cột trụ đá to lớn mọc sừng sững giữa trung tâm động; khoang 4 nằm ở vị trí cao hơn so với các ngăn khác và phải trườn qua một ngách nhỏ mới có thể vào khám phá khoang 5, là khoang cuối cùng đồng thời cũng hấp dẫn nhất động. Quang cảnh trong khoang giống như một mê cung có ngai vàng, núi hoa cương lấp lánh. Dưới nền là những thảm ruộng bậc thang nối tiếp nhau từ gần đến xa, từ cao xuống thấp, xung quanh là các khối nhũ đá rủ xuống giống hình tượng Phật. Cả 5 khoang động với vẻ quyến rũ luôn tạo ấn tượng và cảm xúc mạnh mẽ cho người thưởng ngoạn. Ðứng dưới động, du khách có cảm giác như đang đứng giữa một toà lâu đài cổ kính, có lối kiến trúc đồ sộ, hùng vĩ nhưng không kém phần lãng mạn, thơ mộng.
Di tích tháp Chiềng Sơ thuộc bản Nà Muông, xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên Đây là di tích kiến trúc nghệ thuật khá độc đáo thể hiện mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị của nhân dân hai nước Việt – Lào. Theo truyền thuyết, Việt – Lào vốn là hai dân tộc anh em nên để minh chứng cho tình đoàn kết gắn bó ấy, hai dân tộc đã cùng nhau quyên góp xây dựng một công trình tín ngưỡng chung cho đồng bào sinh sống tại nơi đây.
Đến nay, chưa có một tư liệu lịch sử cụ thể nào khẳng định niên đại khởi dựng của cây tháp nhưng kết quả của các nhà nghiên cứu cho thấy tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ XV-XVI. Tháp Chiềng Sơ là công trình kiến trúc nghệ thuật thể hiện rõ sự tài ba và sự sáng tạo nghệ thuật của nhân dân hai nước Việt – Lào. Tháp được kiến trúc theo hình nậm rượu, dưới to và phần trên nhỏ dần. Tháp cao 10,5m, bốn mặt xung quanh chân Tháp được đặt 2 chú voi ở đằng trước và 2 chú chó ở đằng sau. Tháp được xây dựng bằng gạch và vôi vữa mật. Gạch để xây Tháp có hai loại đó là gạch chỉ loại cỡ lớn, dày dùng để xây dưới chân Tháp, còn loại gạch nhỏ và mỏng dùng để xây trên thân, ngọn Tháp.
Phía chân Tháp được xây dựng theo hình vuông gồm nhiều tầng xếp lên nhau làm cho dáng vẻ cây Tháp thêm phần chắc chắn, ngoài lớp gạch được trát một lớp vữa, xung quanh không trang trí hoa văn. Phần thân Tháp được trang trí những họa tiết hoa văn, nổi bật là một tòa sen có sáu lớp chồng lên nhau đội lấy tòa Tháp cùng với những đường nét hoa văn chìm nổi cách điệu hình chim muông, hoa lá theo bố cục từng phần rất hài hòa. Đặc biệt hơn cả là những con rồng được đắp nổi uốn mình quanh thân Tháp, đầu và đuôi rồng chụm vào nhau tạo thành hình số tám. Những con rồng này mang trên mình lớp vảy rất đặc trưng, không giống bất cứ phong cách thể hiện nào qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam. Rồng có kích thước nhỏ như những con rắn mà văn hóa Ấn Độ giáo tôn thờ. Tất cả những họa tiết hoa văn này được bố trí hài hòa quanh thân Tháp nhằm tạo điểm nhấn và tôn lên vẻ đẹp của Tháp đồng thời tạo sức hấp dẫn và lôi cuốn người xem khi được chiêm ngưỡng di tích kiến trúc nghệ thuật này.
Từ phần chính của thân tháp trở lên trên được xây theo kiểu kiến trúc hình ống dạng hình lục giác, xung quanh là đường tiếp tuyến xen lẫn hình cánh sen chạy liên hoàn quanh thân tháp. Toàn bộ thân Tháp có 3 tầng, các mặt của mỗi tầng được xây trát phẳng theo hình lục giác không trang trí hoa văn, đặc biệt phần chính giữa của mỗi tầng được xây phình to ra trông giống hình những búp sen non. Ở giữa phần giáp nối của mỗi tầng đều được trang trí hoa văn, các hoa văn được cách điệu và đắp sẵn rồi gắn vào như: hình cánh sen, hình lưỡi mác, hình mặt trời và các hình hoa lá khác; bên trong các cánh sen và lưỡi mác có gắn những miếng gương nhỏ để khi mặt trời chiều vào tỏa ánh hào quang ra xung quanh. Tầng trên cùng (ngọn Tháp) được trang trí giống tầng dưới, chỉ khác về kích thước được thu nhỏ để tạo nên vẻ đẹp mềm mại và thanh tú của Tháp.
Tháp Chiềng Sơ tiềm ẩn nhiều giá trị kiến trúc, lịch sử, văn hóa còn tồn tại đến ngày nay. Thứ nhất, đây là một di tích mang giá trị nghệ thuật cao về mặt kiến trúc. Kiểu dáng của Tháp kết hợp với những họa tiết hoa văn cho thấy đây là một di sản văn hóa cổ được gửi gắm những tư duy sáng tạo, những dụng ý nghệ thuật và suy tưởng về cuộc sống của những người trực tiếp xây dựng nên Tháp nói riêng và nhân dân hai dân tộc Việt – Lào nói chung.
Thứ hai, tháp Chiềng Sơ để lại giá trị lịch sử to lớn bởi đã giúp các nhà nghiên cứu tìm ra và khẳng định được lịch sử về tình đoàn kết gắn bó lâu đời giữa hai dân tộc anh em Việt – Lào.
Thứ ba, giá trị về văn hóa: với sự sáng tạo tài tình, người xưa đã để lại cho thế hệ mai sau một di sản văn hóa – đó là một tòa kiến trúc Tháp cổ lộng lẫy mà ẩn chứa trong đó là nét đẹp văn hóa giữa Việt Nam và Lào đã cùng bắt tay chung ý tưởng để xây dựng nên. Sự tồn tại của tòa Tháp giáo dục thế hệ trẻ chúng ta nhìn vào di tích như soi vào một tấm gương lớn để thấy được thành quả lao động của cha ông với những nhiệt huyết, tài năng và sự đoàn kết. Mọi sự cố gắng ấy cho thấy mục đích mà cha ông ta muốn hướng tới đó là “Chân – Thiện – Mỹ”.
Tháp Mường Luân là công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị tham quan nghiên cứu, thuộc bản Mường Luân, xã Mường Luân, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Từ thành phố Điện Biên Phủ theo quốc lộ 279 về phía Nam, đến ngã ba Pom Lót rẽ tay trái đi đến Na Sang, vượt qua dốc Keo Lôm (thung gió), qua Suối Lư rồi thẳng đường đến bản Mường Luân khoảng 90 km là đến nơi.
Tháp Mường Luân được dựng ngay đầu bản dưới chân núi Hua Ta (núi đầu nguồn). Tháp kiến trúc theo hình vuông, dưới to, trên nhỏ dần, bệ tháp cao 1m, mỗi cạnh là 5,50m, xung quanh không trang trí hoa văn, được trát một lớp vữa từ dưới lên tạo thành một tòa sen cách điệu, có 6 lớp chồng lên nhau đội lấy cả tòa tháp. Toàn bộ tháp Mường Luân cao 15m được bố cục trang trí thành hai phần. Phần thân tháp từ bệ trở lên có nhiều bệ tròn vai được làm nhẵn, chồng lên nhau kết hợp với những đường nét hoa văn khắc chìm, khắc nổi thể hiện bằng những hình chim cách điệu, hình hoa lá được bố cục hài hòa. Trong phần một nổi bật nhất là hình rồng được đắp nổi chạy quanh thân cây tháp, tạo thành hình số tám kép. Bốn mặt của tháp đều thể hiện năm cặp rồng tạo cho cây tháp một dáng vẻ bề thế, vừa vững chãi, vừa có độ bền chắc khỏe.
Phần thứ hai của cây tháp có hai tầng và một ngọn tháp. Các mặt của mỗi tầng không trang trí hoa văn mà được trát vữa, vôi cát và mật mía. Mỗi phần xây phình to ở giữa, hai đầu thóp lại giống như hình quả trám. Ở giữa phần tiếp giáp của mỗi tầng được trang trí hoa văn và các họa tiết được làm sẵn bằng đất nung như đầu chim, hình cánh sen, hình lá đề, lá nhọn và hình mặt trời. Các họa tiết trang trí được kết nối với nhau tạo thành một đồ án trang trí hài hòa, bố cục chặt chẽ. Bên trong các cánh sen, lưỡi mác có gắn những mảnh gương nhỏ. Đặc biệt hình mặt trời có gắn ở giữa bốn mặt tháp cũng được gắn gương để mỗi khi ánh mặt trời chiếu vào tháp tỏa ánh hòa quang ra cả bốn phương. Giữa tầng hai và ngọn tháp cũng được thể hiện trang trí như tầng một và tầng hai nhưng chỉ khác nhau là thu nhỏ để tạo nên vẻ đẹp nhẹ nhàng, mềm mại. Màu đất nung của các họa tiết trang trí đỏ tươi, xen lẫn với màu xám trắng, xám nâu và xám đen tạo cho tháp thêm cổ kính, nổi bật trên nền xanh thẫm của núi Tây Bắc.
Tháp Mường Luân như một cô gái duyên dáng, dịu hiền đứng lặng lẽ soi mình trên dòng sông Mã trong xanh…Đây là công trình kiến trúc nghệ thuật biểu trưng cho tình đoàn kết các dân tộc, đặc biệt việc xây dựng tháp còn thể hiện tình hữu nghị Việt – Lào đã gắn bó keo sơn từ lâu đời.
Trong bốn cực của lãnh thổ Việt Nam, cực Tây A Pa Chải nằm trên đỉnh Khoang La San, cách bản Tá Miếu, bản cuối cùng về phía tây của xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên 6 km đường rừng, Điện Biên được xem là điểm khó chinh phục nhất. Cột mốc biên giới được xây bằng đá hoa cương có ba mặt quay về ba hướng, mỗi mặt có khắc tên nước bằng tiếng quốc ngữ riêng và quốc huy ba quốc gia Việt Nam, Lào và Trung Quốc.
Để đến được vùng đất nơi địa đầu Tổ quốc từ Hà Nội các bạn có thể bắt xe khách Điện Biên (gửi kèm xe máy) lên tới Tp Điện Biên Phủ rồi đi tiếp vào Trung tâm huyện Mường Nhé. Từ đây vào đến Sín Thầu còn khoảng 70km. Cuối cùng, từ đồn biên phòng Apachai các bạn cần đi bộ khoảng 10km nữa mới đến được nơi.
Xem thêm bài viết : Kinh nghiệm đi phượt A Pa Chải
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé nằm trên địa phận huyện Mường Nhé tỉnh Điện Biên, cách thành phố Hà Nội khoảng 700km về phía Tây Bắc. Đây là khu bảo tồn thiên nhiên đa dạng về sinh học được đánh giá vào loại lớn nhất ở Việt Nam…
Từ trên cao nhìn xuống phong cảnh núi rừng Mường Nhé giống như một bức tranh đẹp và rất có hồn. Pha lẫn trong màu xanh lục của cây rừng, màu vàng của hoa cúc quỳ cùng với màu vàng đỏ của những đoạn đường chưa được rải nhựa, trên những nếp nhà sàn, nhà lá, có kích cỡ to nhỏ khác nhau nằm rải rác bên vệ đường, ven suối và lẫn cả trong những lùm cây rậm rạp, um tùm, thấp thoáng xa xa là những ngọn núi nhấp nhô lượn sóng nối tiếp nhau cùng đua dưới ánh mặt trời.
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé có diện tích khoảng 310.262 ha gồm 10 xã biên giới của huyện Mường Nhé với sự cư trú của các dân tộc như: Hà Nhì, H’Mông, Khơ Mú, Mông…và gần 118.000ha đất rừng tự nhiên được bao phủ 43% , trong đó có nhiều cánh rừng nguyên thuỷ như: rừng thường xanh trên đất thấp, rừng thường xanh trên núi cao và rừng tre nứa đang được bảo tồn nguyên vẹn.
Nơi đây còn là nơi cư trú của nhiều loài động vật quí, hiếm như: rùa đá, bò tót, gấu chó, tê tê, sói đỏ, cầy hương, mèo rừng…và một số loài còn được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Ngoài ra những tài liêu trước đây cho thấy vào những năm 80 của thế kỉ trước khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé còn 200 con voi, 300 con bò tót, 35 loài bò sát, 59 loài thú khác, 270 loài chim.
Bên cạnh đó hệ thực vật ở đây cũng khá đa dạng về chủng loại có khoảng 308 loài trong đó có nhiều loài mang giá trị đặc biệt về mặt khoa học như: chò đãi, dổi xương, chò nước, lát hoa, chò chỉ, pơ mu, trầm hương…riêng loài cây lấy gỗ đã có 112 loài, cây thuốc nam có 68 loài quý hiếm.
Với hệ thực động vật như vậy khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé được đánh giá vào loại đa dạng về chủng loại và lớn nhất nước ta, bởi thế bảo tồn khu rừng thiên nhiên này có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về hệ sinh thái và cả về rừng phòng hộ sông Đà. Đây sẽ là một điểm đến hấp dẫn cho du lịch sinh thái và nghiên cứu khoa học trong một tương lai không xa.
Đến Điện Biên, du khách không nên bỏ qua một điểm du lịch mang đậm sắc màu vùng cao, đó là những buổi chợ phiên. Tại các phiên chợ ở huyện Tủa Chùa, du khách sẽ không gặp cảnh mời chào, chèo kéo mua hàng, mà chỉ thấy những gương mặt thuần phác trong bộ quần áo dân tộc sặc sỡ. Họ đến chợ ngoài mục đích mua bán còn là để vui với chợ, vui với khách đi chợ. Tủa Chùa có 3 chợ chính: Mường Báng, Xá Nhè, Tả Sìn Thàng. Trong không khí nhộn nhịp chợ phiên, chẳng biết tự bao giờ các đôi trai gái đã tìm thấy nhau. Họ đã dùng khèn lá, khèn môi, tiếng sáo gửi tình cảm, thả lời tỏ tình, làm quen với nhau. Họ tặng cho nhau những chiếc vòng tay, chiếc gương làm tin. Từ những buổi gặp ở chợ xuân này đã có biết bao chàng trai, cô gái thành vợ, thành chồng.
Chợ phiên Tả Sìn Thàng họp vào ngày Tý và ngày Ngọ hàng tháng theo lịch âm. Sáu ngày họp một phiên, đây là nơi trao đổi, giao thương hàng hóa, nông sản của đồng bào các dân tộc thuộc 5 xã phía Bắc huyện Tủa Chùa (Sín Chải, Tả Sìn Thàng, Lao Sa Phình, Trung Thu, Sính Phình). Chợ phiên cũng là nơi thể hiện đậm nét màu sắc văn hóa các dân tộc vùng cao trong khu vực.
Xem thêm bài viết: Chợ phiên Tả Sìn Thàng
Chợ phiên xã Xá Nhè (huyện Tủa Chùa) họp ở trung tâm xã Xá Nhè được hình thành từ vài năm, cứ 6 ngày lại có một phiên chợ (chợ lùi). Đồng bào ở đây thường tính ngày chợ theo ngày âm lịch là ngày Dậu và ngày Mão.
Xem thêm bài viết: Chợ phiên Xá Nhè
Chợ A Pa Chải hay còn được gọi là Chợ ngã ba biên giới nằm trên vùng đất tiếp giáp giữa huyện Mường Nhé (Điện Biên – Việt Nam) với huyện Giang Thành (Vân Nam – Trung Quốc), gần cột mốc số 3 giữa biên giới Việt Nam- Trung Quốc. Được họp vào những ngày 3, 13 và 23 dương lịch hàng tháng, 6 năm trôi qua kể từ khi hình thành, chợ phiên A Pa Chải không chỉ trở thành một thói quen thân thuộc của nhiều thế hệ dân tộc, một nét đẹp văn hóa vùng biên cương mà còn là một địa chỉ hấp dẫn mời gọi du khách đến tìm hiểu, tham quan
Được thành lập từ năm 2010 với mục đích ban đầu là phục vụ nhu cầu mua sắm, giao thương của bà con hai bên biên giới. Mỗi phiên chợ thường họp từ sáng sớm đến 5 giờ chiều. Từ những ngày đầu còn đơn sơ, thưa thớt với những sạp hàng đơn lẻ, hàng hóa đơn điệu thì nay chợ đã phát triển có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của bà con nhân dân cũng như du khách tham quan.
Hiện quy mô chợ không ngừng phát triển, các gian hàng bày san sát và hàng hóa rất đa dạng nhiều chủng loại. Bên kia Trung Quốc, các gian hàng cũng rất phong phú với đủ các mặt hàng đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Từ thực phẩm, giày dép, quần áo đến các sản phẩm điện tử, đồ gia dụng…Đến với phiên chợ không chỉ người Việt và người Trung Quốc mà còn có cả người Lào đến mua sắm, giao thương.
Không quá phong phú trong chủng loại nhưng các món ăn ở Điện Biên cực kì độc đáo, có một không hai khiến du khách đến từ đâu cũng sẽ hài lòng. Có thể kể tên một vài món ngon và đặc sản của đất Điện Biên như :
Người Thái có câu “cáy măn mọk má ha, báu to pa pỉnh tộp ma sú”, nghĩa là “gà tơ tần đem đến, không bằng pa pỉnh tộp đem cho” để thể hiện sự tinh tế và sự quý trọng món ăn này. Theo tiếng Thái, “pa” có nghĩa là cá. “Pa pỉnh tộp” được hiểu là món “cá nướng gập”, mô tả đúng hình dáng của món ăn.
Đối với đồng bào dân tộc Thái các món ăn từ cá cùng với xôi nếp nương và các loại củ, quả là những thực phẩm quan trọng và phổ biến trong bữa ăn hàng ngày. Nguyên liệu chính của món “pa pỉnh tộp” là cá suối và các loại gia vị. Món ăn này đặc biệt cả từ cách chế biến cho tới cách kết hợp các loại gia vị.
Các loại cá chép, trôi, trắm còn tươi sống chọn con cỡ 0,5 – 0,8kg, làm sạch vảy rồi mổ lấy hết ruột ra, không rửa lại bằng nước. Đặc biệt, khi mổ cá phải mổ dọc sống lưng, kéo từ đầu xuống tận đuôi, để lại phía bụng cá thay vì mổ bụng cá như thông thường.
Đồng bào ở đây lý giải cách mổ này giúp gập úp cá dễ hơn khi nướng, đồng thời phần gia vị nhồi trong bụng cá tiếp xúc với than hồng ngấm vào thịt cá sâu hơn.
Phần gia vị ướp trực tiếp vào trong mình cá gồm rau rừng, rau thơm như húng dũi, hành củ, hành lá, sả, ớt, gừng, sả được thái nhỏ. Đặc biệt không thể thiếu mắc khén và mầm măng cây sa nhân. Phần gia vị này rất quan trọng vì nó sẽ quyết định hương vị của món ăn.
Sau khi đặt hết gia vị vào mình cá, gập ngang thân cá lại sao cho đầu và đuôi cá chạm vào nhau. Bên ngoài con cá xoa một lớp bột riềng và thính gạo trước khi nướng.
Cá được nướng trên than củi liu riu, khi gần chín, mỡ cá rỏ xuống củi, nổ lách tách, mỡ cá béo ngậy quyện với mùi gia vị thơm nức mũi.
Gà nướng mắc khén là món ăn rất nổi tiếng của người Thái ở vùng Tây Bắc, trong đó có Điện Biên. Lựa chọn than củi giữ nhiệt không để nguội và lửa cháy quá to, không phết thêm mỡ vào thịt gà như cách nướng thông thường. Nướng từ từ thong thả. Lúc nướng để cho mỡ gà chảy ra tự nhiên sao cho da và thịt sát lại. Khi nướng cần lưu ý, thịt gà chín săn lại mới phết nước gia vị mắc khén. Gặp hơi nóng, mắc khén tỏa ra hương thơm ngào ngạt.
Gà nướng mắc khén có da vàng, thịt thơm, vị ngọt, đậm mùi mắc khén, xả, gừng, ớt. Khi chế biến, chọn gà ngon làm sạch sau đó đem nướng.
Nếp nương được trồng nhiều ở các tỉnh Tây Bắc nhưng nói đến loại nếp ngon nhất người ta thường nghĩ ngay đến nếp nương Điện Biên. Những hạt nếp nương Điện Biên căng tròn, khi nấu lên có vị ngọt, thơm, mềm dẻo. Cách đồ xôi nếp nương công phu hơn nếp trồng ruộng nước. Xôi phải được đồ trong một cái chõ gỗ đặc biệt của người dân tộc Thái, xôi chín bằng hơi, mềm, dẻo nhưng không dính tay. Phải ngâm nếp trong nhiều giờ liền thì khi đồ xôi mới không bị sượng. Xôi được đồ rất kỳ công, phải qua hai lần đồ thì xôi mới dẻo thơm. Lần đồ thứ nhất, sau khi xôi tỏa hương thơm, vừa chín tới thì đem đổ ra một rá rồi lấy đũa trải ra cho đều, để một lúc sau thì đổ tiếp vào chõ và tiếp tục đồ cho xôi chín đều.
Người dân tộc Thái thường dùng xôi nếp nương chung với cá nướng, thịt lợn nướng… Cá nướng được tẩm ướp cùng với hạt mắc khén (một loại gia vị đặc trưng có vị cay và rất thơm) cùng với ớt, sả, gừng, rồi nướng bằng hơi nóng lửa than hồng cho đến khi chín vàng mới đúng hương vị của núi rừng Tây Bắc.
Khách du lịch khi ghé Điện Biên thường mua những cái ếp xôi nóng hổi của người dân tộc Thái để mang đi đường ăn cho ấm bụng. Trong cái se se lạnh của vùng núi Tây Bắc, khách sẽ khó lòng quên được hương vị dẻo thơm, hấp dẫn của xôi nếp nương. Thích thú vô cùng khi bạn vo tròn từng nắm xôi trong tay, nhẩn nha thưởng thức và khi xòe lòng bàn tay ra vẫn cảm thấy bàn tay mình sạch trơn, không có cảm giác bết dính.
Đây là giống gà xương đen đặc hữu của đồng bào Hmong, tiếng Hmong gọi là Ka Đu. Trải qua hàng ngàn năm với cuộc sống du canh du cư, song Ka Đu vẫn được lưu giữ qua bao thế hệ bởi người Hmong coi Ka Du là 1 tài sản quí, luôn có mặt trong danh mục tài sản thừa kế cho tặng, dựng vợ gả chồng.
Ka Đu có mắt viền đen, da đen, vân thịt đen, phủ tạng đen, xương cũng nhuốm đen. Thịt gà Ka Đu rất săn chắc, thơm ngon. Đặc biệt thịt có hàm lượng glutamic và sắt cao gấp 2 lần so với gà bình thường và hàm lượng colesteron thấp. Đồng bào dân tộc thiểu số thường nấu cháo thịt Ka Đu bồi dưỡng cho trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai và cho con bú và dùng xương Ka Đu để ngâm rượu hoặc nấu cao sử dụng cho người già, người ốm yếu, chân tay run.
Rau ban là món “đưa cơm” truyền thống bao đời của đồng bào Thái vùng Tây Bắc, đặc biệt là ở Điện Biên. Ấy là những búp ban mới chỉ có đôi lá, người Thái hái từ những cây ban trên đồi cao, mang về rửa sạch rồi cho vào vại muối như muối dưa cải ở miền xuôi. Búp ban muối, ăn với cá sông Nậm Rốm kho thì ngon không gì sánh được. Chỉ qua đèo Pha Đin, mùa này hai bên đường đều có những người phụ nữ tần tảo đứng bên gùi búp ban xanh. Nhưng, muốn gì thì muốn, phải lên đến thành phố Điện Biên Phủ, bước chân vào chợ Mường Thanh, hòa vào những cánh khăn piêu, thấp thoáng trong dáng điệu áo váy của phụ nữ Thái mới cảm nhận được một “mùa xuân của búp ban” ở nơi này.
Những quẩy búp ban còn xanh mơn mởn, nguyên mùi ngai ngái đặc trưng. Rau của loài hoa đẹp, lại được người con gái Thái nhẹ nhàng gói lại, rồi đưa cho khách thì cái cảm giác mới nghĩ đến đã thấy là món ngon.
Hoa ban là một trong những sản vật của núi rừng Tây Bắc. Cũng giống như búp ban, hoa ban cũng là thức ăn của đồng bào Thái ở Tây Bắc. Hơn thế, hình ảnh cánh ban trắng đã đi vào đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân Tây Bắc, nhất là bà con đồng bào Thái. Với đồng bào Thái, có lẽ không ai là không trải qua tuổi thanh xuân, với những trò chơi thú vị hái hoa ban và hát giao duyên. “Trăm năm ngắm ban nở còn ngắm mãi. Mỗi mùa ban lộc nảy thêm trẻ ra”. Câu ca của đồng bào Thái không chỉ lắng đọng về sức sống của loài cây ấy, mà còn như mời gọi bạn ngược đường đến với Tây Bắc, dù chỉ một lần cũng đủ để nhận ra.
Nếu lên Điện Biên vào dịp Tết Mường Thanh bạn sẽ được thưởng thức món xôi chim, một món ăn ngon của người dân nơi đây. Xôi chim được bày trên mâm bằng một cái ếp tre mộc mạc, có nắp đậy để giữ cho xôi luôn ấm và mềm. Xôi chim đặc biệt dẻo thơm nhờ hạt nếp nương sau hai lần đồ bằng chõ gỗ và béo ngọt nhờ vị thịt chim câu mới ra ràng tao thơm. Hương vị xôi chim sẽ hoàn chỉnh khi được rắc thêm tép hành khô chiên vàng.
Có lẽ người miền xuôi lên Điện Biên nào đó quá ấn tượng với món nhót xanh cuốn bắp cải, rau mùi, chấm với chẳm chéo nơi đây. Món ăn đã làm nên đặc trưng của người Điện Biên. Đầu tiên là phải chọn những chùm nhót xanh vừa thành quả chưa lâu. Có người thích ăn quả thật non, nhưng có lẽ nhót đạt tiêu chuẩn nhất là khi vừa đủ tầm, không non quá mà cũng già quá, lớp phấn mới chỉ mới trăng trắng.
Quả nhót phải xanh mướt, hơi mềm mềm, chưa mọng nước và chua rôn rốt, lại cũng thoảng qua vị chát nữa. Cuốn cùng với nhót cần có bắp cải, cũng phải chọn những lá vừa tầm, không già, không non quá, trắng nõn là. Thêm vài lá tỏi, lá rau mùi, ít gừng thái lát nữa là được.
Quan trọng nhất là bát nước chấm, chẩm chéo là sự hòa quyện của những: tỏi khô, (nhưng phải đúng là tỏi tây bắc mới có mùi, vị cay đặc trưng, tỏi tàu – củ to, mọng nước không ra vị của nó), gừng, ớt, rau mùi, mắc khén, xả… tất cả đều giã nhuyễn, trộn vào chút nước mắm hoặc muối cũng được. Khi ăn, nhót được cắt nhỏ, cuộn cùng bắp bải, gừng, mùi, tỏi và chấm với chẩm chéo.
Chéo là loại gia vị miền Tây Bắc đã đi vào huyền thoại, không thể thiếu trong bữa ăn của người Thái đen được làm chủ yếu từ quả Mắc Khén. Mắc, theo tiếng Thái, có nghĩa là quả. Nhưng còn Khén thì không hề có chữ gì đồng nghĩa hay cả trong ngôn ngữ bản địa. Bởi vậy mắc khén mãi mãi sẽ là một tên riêng, tự nhiên tồn tại như chính bản thân núi rừng hoang dã, bí hiểm mà cũng quá đổi quen thuộc với con người. Thực tế Mắc Khén là một loài cây dại thuộc họ hồi, có tinh dầu, khi đơm trái sẽ kết thành những chùm quả nhỏ li ti, tỏa hương thơm dịu.
Rêu được lấy từ những con suối trong. Sau khi được làm sạch, người Thái thường trộn hạt dổi, hạt mắc khén (những gia vị được lấy từ rừng) cùng ớt, tỏi, gừng, củ xả, lá chanh rồi thêm ít thịt mỡ. Dùng lá dong được rửa sạch để gói rêu và gia vị, buộc lạt tre túm lại hai đầu, bẻ quặt hai mép lá lại thành cái hình khum khum treo lên một thanh nẹp tre.
Đem tất cả vùi vào trong tro ấm. Không than, không lửa cũng không hơ khói. Bao giờ lá dong cháy tý tách, thì lôi thanh tre ra, hơ cả gói rêu nướng trên than hoa. Lá dong cháy đến lớp trong cùng, mỡ và nước xanh thơm mát của rêu suối rỉ ra, thì bày ra đĩa. Khi ăn, mở gói lá dong, mùi mắc khén, hạt sẻn và mấy chục thứ gia vị cùng ngạt ngào, riêng có rêu vẫn mát lịm, thanh tao. Gắp miếng rêu thả vào miệng, nhấp một chút rượu, một cảm giác lạ lùng dễ chịu lan tỏa khắp người, một cảm giác không dễ để quên.
Măng đắng là một loại sản vật đặc sản mà chỉ có vùng núi rừng như Điện Biên mới có. Măng đắng được mọc lên từ những dãy đồi, sườn núi, và được nhú lên từ mặt đất, khi có mưa rào măng mọc lên rất nhanh, măng ngon nhất là được hái từ lúc còn chưa nhú khỏi mặt đất, khi đó từng búp măng sẽ trắng ngần nõn nà trông thật hấp dẫn.
Măng đắng được chế biến thành nhiều món khác nhau. Khi ăn tại nhà hàng hoặc bản văn hóa, bạn có thể yêu cầu một món măng luộc chấm với chẩm chéo, món nước chấm có đủ gia vị tiêu, tỏi, ớt, mắc khén, rau thơm… của người Thái Điện Biên. Bạn cũng có thể yêu cầu được thưởng thức món măng đắng nướng; xào với thịt lợn, bò hoặc hầm với xương tất cả các món đều rất ngon. Khi thưởng thức bạn sẽ cảm nhận được vị đắng, ngọt của măng, vị cay của tỏi, ớt, mắc khén, vị bùi, thơm của rau mùi,…Tất cả hương vị của tự nhiên đều được hòa quện vào một món ăn tạo nên sự khác biệt của vùng núi Tây Bắc Điện Biên mà không đâu có được. Bạn có thể thưởng thức măng đắng với các món ăn truyền thống của người Thái đều rất đậm đà và khó quên.
Chỉ khi lên với Điện Biên du khách mới được thưởng thức Canh bon, món ăn dân dã của đồng bào Thái. Món canh Bon được chế biến từ nhiều nguyên liệu trong đó có da trâu hoặc bò, dọc bon ngọt, cà dại cùng các loại rau thơm, gia vị. Qua bàn tay khéo léo người dân đã tạo nên một món ăn vô cùng hấp dẫn bởi sự thơm ngon giòn sật của da trâu quyện với vị hơi đắng của cà, thơm của mắc khén, ấm nóng của sả.
Thịt lợn băm nhỏ trộn với gia vị được bọc bằng lá chuối cũng thực sự thú vị. Thịt lợn, loại nguyên liệu ở vùng miền nào cũng có và nó là món ăn chủ đạo trong cuộc sống hàng ngày của người Việt. Tuy nhiên qua bàn tay khéo léo của người phụ nữ Thái, món thịt băm bọc lá chuối lại mang đến cho người ăn cảm giác lạ, ít ở đâu có. Món này cũng hấp cách thủy hơn 1 tiếng đồng hồ nên thịt mềm dính chặt, quyện vào nhau, mùi thơm của thịt quyện với mùi thơm của lá chuối, của hạt tiêu càng làm hương vị trở nên đặc biệt.
Vịt được tẩm ướp các loại gia vị như ớt, gừng, xả, bột gà, mắc khén rồi đồ trong khoảng 3 tiếng, om thật nhỏ lửa. Món ăn này tuy màu sắc không được đẹp nhưng nếm thử sẽ thấy ngay cái vị đặc trưng không đâu có. Mới chỉ ngửi mùi thôi đã thấy đặc biệt, mùi hơi cay nồng nhưng khi đưa vào miệng vị ngọt, cay, bùi lan tỏa khiến ai cũng phải tấm tắc khen.
Khẩu Xén là loại bánh truyền thống của dân tộc thái, được chế biến từ gạo nếp và sắn tươi có hương vị rất đặc trưng của người Thái trắng ở thị xã Mường Lay, Điện Biên
Khẩu Xén là loại bánh như bánh phồng tôm nhưng chắc và dai hơn. Bánh có thể được làm từ nhiều loại nguyên liệu như gạo nếp cẩm có màu đen, gạo nếp nương có màu trắng hoặc pha thêm gấc để có màu vàng, thêm màu của cây cơm nếp để có màu tím. Đậm đà hơn là Khẩn Xén làm từ sắn tươi, loại sắn nạc chỉ có ở vùng này.
Bánh xén làm bằng củ sắn tươi cũng tốn nhiều công phu hơn. Khâu đầu tiên củ sắn phải gọt vỏ, rồi nạo ra trộn với gấc, sau đó đồ thật kỹ rồi xay nhỏ mới đem ra cán mỏng, phơi qua rồi cắt thành từng miếng nhỏ, sau đó mới phơi tiếp cho đến khi bánh thật khô.
Miếng bánh Khẩu Xén được cắt theo hình bình hành, nhỏ hơn 2 ngón tay một chút, khi rán lên nở phồng nhìn rất bắt mắt. Cho vào miệng, miếng bánh giòn tan, thơm ngát và đậm đà hương vị của gạo nếp, sắn tươi.
Cách đây nửa thế kỷ, gạo ở khắp miền Nam Bắc ngày đêm vượt đèo Pha Đin bằng xe thồ, vai gánh để làm nên kỳ tích Điện Biên Phủ và bao câu chuyện phi thường trên con đường tải gạo. Thật ngẫu nhiên, khi lịch sử sang trang thì ở thung lũng lọt thỏm trong bốn bề mây núi này lại như có “phép mầu” mà bất cứ giống lúa nào gieo xuống cũng trở thành hạt gạo trắng tròn, thơm dẻo, đậm đà khác thường. Và hạt gạo ấy cũng ngổn ngang bao tâm sự thời kinh tế mở.
Gạo Mường Thanh có thể nấu cơm lam, làm khẩu cắm (đồ như xôi với lá cẩm – một loài cây thơm, sẽ cho vị xôi ngậy, thơm, dẻo rất thú vị), khẩu háng (đồ thóc lên đem phơi khô, khi nào muốn ăn, xát vỏ đồ chín một lần nữa) rồi khẩu papa (giống như làm bánh nếp dưới xuôi)… dùng làm lễ vật đình đám, cưới hỏi.
Chưa có nghiên cứu khoa học nào về hạt gạo gieo trồng từ đây nhưng thật kỳ lạ là bất cứ giống lúa nào gieo ở thung lũng này cũng cho hạt gạo dẻo, thơm, trắng bóng đậm đà như vậy. Xét về kinh tế thì rất nhiều ưu việt: tỉ lệ gạo cho rất cao (70%), năng suất hơn nơi khác 70- 150% và tiết kiệm được rất nhiều chi phí gieo trồng. Đến nay trong đời sống, gạo Điện Biên đã có thương hiệu riêng mình bay đi cả nước.
Đây vốn là loại côn trùng sống trong thân cây chít. Để biết cây nào có sâu chít , người thu hái sẽ lựa chọn những cây có dấu hiệu bệnh, không thể ra hoa (đó chính là cây đã bị ấu trùng ký sinh). Người dân bắt sâu chít bằng cách “chẻ” đôi ngọn chít để moi sâu ra. Những con sâu chít tươi rói có màu trắng sữa, căng mọng sau khi được lấy ra thường được thả trong chậu rượu nhạt. Thứ rượu ấy sẽ giữ cho sâu không bị biến chất.
Ngoài cách sử dụng phổ biến nhất là ngâm rượu uống, sâu chít có thể sao khô, nấu cháo. Số liệu khảo cứu cho thấy loài “đông trùng hạ thảo” có hàm lượng protein chiếm 25-32% trong cơ thể, trong đó có 6 axit amin, còn sâu chít cũng có hàm lượng protein tương đương nhưng thành phần axit amin được xác định lên đến 17/20 loại cần cho cơ thể.
Vì vậy, ở Điện Biện và các vùng Tây Bắc hiện nay rượu sâu chít và thịt sâu chít là những thứ được tiêu thụ mạnh cho khách miền xuôi.
Tại 4 xã vùng cao của huyện Tủa Chùa, Điện Biên hiện đang lưu giữ một nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên ưu đãi ban tăng, đó là gần 10000 cây chè Tuyết cổ thụ.
Cách trung tâm huyện Tủa Chùa trên 50km là xã Sín Chải, nơi sở hữu gần 2.300 cây chè “Tuyết” cổ thụ, tập trung ở các bản Cáng Tỷ, Sín Chải, Hấu Chua, Mạng Chiền, Sáng Tớ… Cái tên “chè Tuyết” mà người dân trong xã Sín Chải quen gọi cho cây chè có lẽ bởi cái khí hậu đặc thù vùng núi đá nơi đây đã tạo nên cho nó. Vào mùa đông giá lạnh, trên các ngọn núi cao, tuyết rơi phủ khắp cành cây, ngọn cỏ. Những cây chè tưởng chừng không sống nổi trước cái lạnh thấu xương, trơ cành khẳng khiu bám đầy sương, tuyết. Rồi mùa xuân đến, cây chè lại nảy mầm, đâm chồi, đem đến một mùa “vàng xanh” bội thu, mang ấm no về cho dân bản.
Ngoài Sín Chải, các xã Tả Sìn Thàng, Tả Phìn, Sính Phình cũng sở hữu trên 6.000 cây chè cổ thụ có hàng trăm năm tuổi. So sánh với các loại chè ở các vùng chè nổi tiếng khác thuộc khu vực miền núi phía Bắc như Tả Sùa ở tỉnh Sơn La, Suối Giàng ở Yên Bái, chè Tủa Chùa có chất lượng không thua kém. Chè Tủa Chùa sống tự nhiên trên các núi đá, được tích tụ sương núi nên hương chè thơm, màu nước chè vàng óng ánh, rất được nước và có vị đắng, ngọt hòa quyện thuần nhất.
Tiềm năng văn hóa phi vật thể tỉnh Điện Biên cũng là thế mạnh nổi trội để phát triển du lịch với lịch sử hình thành lâu đời, cùng 21 dân tộc anh em sinh sống. Điều đó được thể hiện qua phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt, lễ hội của đồng bào các dân tộc. Với các lễ hội hết sức điển hình như Lễ hội Thành Bản Phủ được tổ chức vào dịp ngày 24 và 25 tháng 2 âm lịch hàng năm để nhân dân và khách thập phương tới tham quan, tưởng nhớ công ơn của người anh hùng áo vải Hoàng Công Chất cùng hai thủ lĩnh người địa phương là tướng Ngải và tướng Khanh đã lãnh đạo nhân dân khời nghĩa thành công đánh đuổi ngoại bang. Đây là lễ hội hết sức đặc sắc thể hiện khối đại đoàn kết giữa miền xuôi và miền ngược, các dân tộc bảo vệ vùng biên cương Tây Bắc của Tổ quốc. Nơi đây trở thành điểm du lịch văn hóa, tâm linh của du khách bốn phương.
Xem thêm bài viết : Lễ hội các dân tộc tại Điện Biên
Bên cạnh đó có rất nhiều các lễ hội đặc sắc của các dân tộc thiểu số như: Người Thái có các nghi lễ nông nghiệp trong năm như: đón tiếng sấm đầu mùa, lễ cơm mới, lễ cúng ruộng, cúng nước, lễ cầu mưa… Và tổ chức nhiều cuộc vui chơi, giải trí ít nhiều đượm màu sắc tôn giáo. Trong đó nổi bật là lễ Xên bản nhằm cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, người dân được ấm no, hạnh phúc… Hằng năm khi mùa xuân – mùa của sự sống đâm chồi nảy lộc, mùa của hoa ban nở và cũng là lúc bắt đầu vào một vụ mới cũng là lúc làm lễ Xên bản. Trong lễ hội này, ngoài phần lễ thể hiện tín ngưỡng tâm linh và ước mong cầu mùa, cầu an thì đây cũng là dịp để bà con trong bản cùng vui chơi, ca hát với tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, với những điệu xòe, điệu sạp đầy mê say và rộn rã tiếng cười… Ngoài ra người Thái còn có nhiều lễ hội điển hình khác như: Xên phắn bẻ (chém đầu dê), Kin Pang Then (cúng trời); Kin khúi (giải hạn)….
Ngày 0: Hà Nội – Điện Biên
Khởi hành từ Hà Nội vào buổi tối từ bến xe Mỹ Đình hoặc Giáp Bát, bắt xe giường nằm đi Điện Biên, thời gian di chuyển khoảng 12 tiếng thì sáng sẽ có mặt tại Tp Điện Biên Phủ.
Ngày 1: Khám phá Điện Biên
Tham quan các địa điểm trong khu di tích lịch sử Điện Biên Phủ, đồi A1, bảo tàng chiến thắng Điện Biên. Trưa nghỉ ngơi ăn trưa.
Chiều đi Hồ Pá Khoang, di tích Mường Phăng, vườn anh đào ở Mường Phăng
Tối đặt phòng khách sạn ở Thành phố Điện Biên Phủ và nghỉ lại ở đây.
Ngày 2: Du lịch cộng đồng Điện Biên
Nếu đã đến Điện Biên thì không nên bỏ lỡ vụ này, ở Điện Biên hiện có khá nhiều bản làm dịch vụ du lịch cộng đồng như Bản Mển, Bản Ten, phường Him Lam, Uva, Hua Pe… Các bạn có thể liên hệ trước để đặt các dịch vụ ăn ngủ nghỉ và giao lưu văn nghệ.
Nếu thích thêm cả dịch vụ tắm suối nước nóng thì có thể lựa chọn Uva và Hua Pe, ở 2 bản này ngoài các dịch vụ du lịch cộng đồng bình thường thì còn có cả tắm suối nước nóng.
Ngày 3: Điện Biên – Mộc Châu
Bắt xe từ Điện Biên về Hà Nội chuyến sáng sớm, xe chạy qua Sơn La và Mộc Châu, dừng lại ở Mộc Châu. Nếu sớm thì có thể tranh thủ thuê xe máy lượn lờ một vài điểm ở Mộc Châu trước.
Ngày 4: Khám phá Mộc Châu
Ngày này các bạn có thể dành để khám phá Mộc Châu như Đồi chè Mộc Châu, Ngũ Động Bản Ôn, Thác Dải Yếm, nếu đi vào đúng mùa có thể khám phá ruộng cải, thung lũng hoa mận Nà Ka…
Tối lên xe về Hà Nội. Các bạn liên hệ với các xe đi Sơn La để hẹn địa điểm đón.
Sáng ngày 5 có mặt ở Hà Nội
Lịch trình này kết hợp ô tô gửi theo xe máy dành cho các bạn thích chinh phục mốc Cực Tây A Pa Chải. Các bạn chú ý liên hệ trước các nhà xe để gửi xe máy bởi mỗi ô tô chỉ mang được một số lượng xe nhất định. Nếu không thể gửi theo xe máy, các bạn cần thêm khoảng 2 ngày để chạy từ Hà Nội lên Điện Biên.
Riêng ngày 4, nếu không thích Sa Pa hoặc nếu đang đi vào dịp lúa chín các bạn có thể lựa chọn đi về Mù Cang Chải hoặc ghé qua Y Tý ngắm lúa rồi về Hà Nội.
Ngày 0: Hà Nội – Điện Biên
Mua vé xe Hà Nội Điện Biên, gửi kèm xe máy theo ô tô lên Điện Biên. Xuất phát từ Hà Nội chiều tối ngày đầu tiên thì sáng hôm sau có mặt ở Tp Điện Biên Phủ.
Ngày 1: Điện Biên – Mường Nhé – Đồn 317
Ngày đầu tiên xuất phát từ Tp Điện Biên Phủ chạy vào Mường Nhé rồi đi tiếp vào đồn 317. Chặng này tổng cộng khoảng gần 300km nên cũng phải đến chiều tối các bạn mới có mặt ở đồn.
Ngày 2: Leo A Pa Chải – Mường Nhé
Sáng sớm hôm sau bắt đầu xuất phát từ đồn 317 đi A Pa Chải, tuỳ thuộc vào tình hình thời tiết mà các bạn có thể mang theo xe đến chân núi chỗ bắt đầu leo hoặc phải đi bộ từ đồn.
Thời gian leo lên và xuống cũng mất ít nhất nửa ngày tuỳ tốc độ và số lượng người đi. Đến khoảng chiều các bạn sẽ quay trở lại được đồn. Lấy xe và hành lý rồi quay ngược trở lại ngủ Mường Nhé.
Ngày 3: Mường Nhé – Mường Lay – Sìn Hồ
Từ Mường Nhé xuất phát đi Thị xã Mường Lay rồi đi Sìn Hồ. Quãng đường khoảng gần 200km, tối ngủ ở Sìn Hồ, tắm lá thuốc ở Sìn Hồ là một trải nghiệm các bạn không nên bỏ lỡ, vui phết.
Ngày 4: Sìn Hồ – Sa Pa
Từ Sìn Hồ đi về Tp Lai Châu rồi theo QL4D – đèo Ô Quy Hồ để về Sa Pa. Trên đường về thị trấn Sa Pa nhớ ghé luôn một số địa điểm trên đường như Thác Bạc, thác Tình Yêu, đồi chè Ô Long, cổng trời Sa Pa.
Tối đặt phòng khách sạn Sa Pa rồi ngủ lại, nếu muốn giá rẻ các bạn có thể tham khảo thêm các homestay ở Sa Pa
Ngày 5: Sa Pa – Lào Cai – Hà Nội
Ban ngày tiếp tục khám phá Sa Pa, nghỉ ngơi ăn uống rồi đến khoảng chiều thì chạy từ Sa Pa về Lào Cai, mua vé tàu và gửi kèm xe máy từ Lào Cai về Hà Nội.
Tìm trên Google
Đang online:
today:
yesterday:
total:
avg: