Chúng ta phải làm mới khoảng 10.000 km. Cứ tưởng tượng, nếu chúng ta đi đường ôtô từ Hà Nội vào TP. Hồ Chí Minh là khoảng 1.600km, nhưng độ dài của đường tuần tra biên giới gấp 7 lần và tất nhiên, khi thi công sẽ khó khăn hơn nhiều so với việc làm tuyến đường số 1.
Làm xong thì nó sẽ là con đường bê tông xi măng dài nhất Việt Nam và có lẽ cũng là một trong những con đường bê tông xi măng dài nhất thế giới.
Ngoài ra, đường có địa hình phức tạp, khó khăn vì yêu cầu số 1 khi xây dựng là phải bám sát biên giới quốc gia, trung bình cách đường biên 100m. Trường hợp đặc đặc biệt được cách tối đa 1.000m, nhiều đoạn chạy chính trên đường biên giới. Đường tuần tra biên giới thường phải bám theo đỉnh núi, hoặc xuống khe suối rất sâu.
Nếu ở chỗ khác thì người ta có thể tránh những đèo cao vực sâu, làm đường ở chân núi. Nhưng đường tuần tra biên giới thì không thể tránh được, đơn giản tránh thì sẽ cách xa đường biên và không còn đáp ứng được tiêu chí đặc thù của đường biên giới.
Xây dựng đường tuần tra biên giới là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước được giao cho Bộ quốc phòng thực hiện, vừa để đảm bảo việc tuần tra biên giới vừa phát triển kinh tế xã hội của đồng bào dân tộc vùng biên giới.
“Thảm lụa bê tông” đường tuần tra biên giới bò lên đỉnh núi cao 1.900m so với mực nước biển tại địa phận biên giới Việt - Lào, huyện Đắk Glei - Kon Tum.
Con đường này Đến nay, tính chi phí tổng thể, xây dựng mỗi ki-lô-mét đường tuần tra biên giới hết khoảng 7,6 tỷ đồng như vậy cả 10.000 km sẽ tiêu tốn 76.000 tỷ đồng ( Cỡ độ 3,3 tỷ ĐÔ MỸ) và tất nhiên là không ít máu xương, mồ hôi binh sỹ.
Đường tuần tra biên giới trong “biển mây” trên đỉnh Trường Sơn.
Qua hơn 10 năm xây dựng 2006 đến nay đường tuần tra biên giới, các đơn vị, doanh nghiệp đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, ngày đêm mở mới, thi công cầu, đường. Thành quả của những nỗ lực không mệt mỏi ấy là hàng nghìn ki-lô-mét đường bê tông nối liền tuyến biên ải của Tổ quốc đã hoàn thành và bàn giao cho địa phương đưa vào sử dụng; góp phần tích cực thực hiện chiến lược bảo vệ an ninh tuyến biên giới của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta; giúp người dân trên nhiều vùng biên từng bước xây dựng nông thôn mới hiệu quả.
Những tuyến đường này cũng biến nhiều vùng biên ải hẻo lánh trở thành điểm sáng về phong trào phát triển kinh tế lâm nghiệp và bảo vệ đường biên mốc giới; đồng thời củng cố quốc phòng, an ninh, mở mang văn hóa, xã hội ở những nơi xa xôi hẻo lánh trên tuyến biên cương của Tổ quốc nơi tuyến đường đi qua.
Đường tuần tra biên giới quốc gia là một dự án chiến lược trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và an ninh biên giới, được kỳ vọng mang lại những đổi thay trong cuộc sống của người dân nơi phên dậu Tổ quốc.
Cung đường chúng tôi hoà vào chỉ khoảng 80km, nhưng đây lại là điểm bắt đầu của đường tuần tra biên giới, được mệnh danh là con đường “Nam quốc sơn hà” và giữ vai trò chiến lược kinh tế, quân sự quốc gia.
Tiếng hát của những người lính biên phòng theo chúng tôi suốt hành trình, họ tự hào kể câu chuyện về sự khởi đầu của con đường phên dậu này. Cuối những năm 1980, Đại tướng Phạm Văn Trà (nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng), lúc bấy giờ đang là Tư lệnh Quân khu 3, thường xuyên đi kiểm tra tuyến biên giới Móng Cái, Bình Liêu.
“Nói là làm”, từ những km đầu tiên ở Pò Hèn, Thán Phún, Lục Phủ (Móng Cái), giờ đây, con đường phên dậu đã và đang dần thành hình, sẽ trải dài 10.196km và đi qua 25 tỉnh biên giới. Có nơi đường bám ngay biên, nơi xa nhất chỉ chừng 1km, do chính các đơn vị công binh phá núi, mở đường. Nếu các cột mốc là những nét chấm đánh dấu đường biên, thì đường tuần tra biên giới chính là nét vẽ phác lên dáng hình đất nước.
Đại tá Nguyễn Văn Thiện, Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh cho biết: “Đây là chủ trương, dự án lớn của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa và tầm quan trọng trong bảo vệ biên giới lâu dài, duy trì trật tự an ninh ở khu vực biên giới; giúp cho bộ đội biên phòng tổ chức tuần tra được thường xuyên, tránh việc vi phạm các Hiệp định, quy chế quản lý biên giới.
Tuyến đường này phục vụ cho phát triển kinh tế ở địa phương và các dự án phát triển kinh tế trọng điểm của tỉnh. Có tuyến đường này là vấn đề giao thương, giao lưu giữa miền xuôi và miền ngược, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần, và những người dân ở biên giới chủ động hơn với cuộc sống của mình”.
“Nhưng đường hồi ấy xấu, đường đất toàn đá sỏi, xe máy đi vất vả lắm”. Người Dao, người Tày ở đây chỉ có nhà trình tường bằng đất lúp xúp, nhòa lẫn vào mênh mông rừng hồi, rừng quế. Không có đường, dân thưa, bản nhỏ đìu hiu, hơn 99% là hộ nghèo đói. Vậy mà khi có đường, đường xây đến đâu màu ngói mới đỏ tươi theo đến đó, Phật Chỉ trở thành đất kinh tế mới nhanh chóng đổi thay.
A Lầu nói như reo: “Nhà thì đông hơn, vui hơn. Người ta có cái nhà cửa để ở khang trang thì mới tập trung vào phát triển kinh tế ngày một đi lên được. Mình có con đường này, bà con mua sắm xe máy đi lại, đong gạo, mua thức ăn thuận tiện, chứ còn mãi như xưa thì mình chỉ có đi bộ thôi. Được cái sự thay đổi ấy mình rất phấn khởi”.
Chỉ trong năm 2015, Phật Chỉ đã được hỗ trợ 200 tấn xi măng, rồi bà con góp gạch dựng nhà, làm sân khang trang, sạch sẽ. Có đường rồi, ai ốm đau cũng xuống bệnh viện huyện dễ dàng; trường học đón được nhiều học sinh hơn, xe thu mua lâm thổ sản vào tận bản. Cuộc sống đổi thay, kinh tế khấm khá hơn cũng đồng nghĩa cho sự an tâm vững tin về cuộc sống đồng bào nơi địa đầu Tổ quốc.
Dẫn chúng tôi đi chào các cột mốc ở Đồng Văn là anh Nguyễn Quý Yên, Trạm phó Trạm kiểm soát biên phòng Đồng Văn, người có duyên công tác nhiều năm ở vùng đất này. Hơn 10 năm trước, dù đi từ sáng sớm, anh và đồng đội cũng mất cả ngày trời tuần tra đường biên, chỉ cuốc bộ băng rừng, mũ vương đầy cây lá, bước chân vương trên đá sỏi.
“Đường tuần tra bây giờ là đường bê tông, vào được tất cả các vị trí mốc rất thuận lợi. Khi nắm được thông tin trên thôn bản nào có vấn đề gì về an ninh trật tự là cán bộ chiến sĩ của trạm cơ động rất nhanh, sau 10-15 phút là đã có mặt ở những vị trí rất xa rồi, chứ không như ngày xưa mất hàng tiếng mới lên tới nơi. Mà đi lại thì anh em cũng đỡ vất vả hơn nhiều” – anh Yên nói.
Dù chưa có dịp đặt dấu chân lên những nẻo đường tuần tra khác, nhưng chỉ nơi địa đầu này, cảnh tượng biên thùy đã khiến chúng tôi ngây ngất. Con đường mềm như dải lụa phơi bên bờ suối, vắt bên những cánh rừng xanh ngút ngát ở Móng Cái. Con đường tựa như sợi chỉ bện qua lưng núi, một bên núi cao, một bên thung sâu thẳm. Có khi lên cao hơn 1.000m, xuyên qua biển mây mù trắng như bông, có khi lại ngả mình qua những thửa ruộng bậc thang tầng tầng lớp lớp ở Bình Liêu.
Hùng vĩ đấy, rợn ngợp đấy, nhưng không gần gũi, thân quen sao được khi ở nơi biên cương xa ngái nhìn về đất mẹ, có ai đó hát bài ca:
Tôi biết, một ngày không xa, nếu cứ đi mãi theo con đường trải rộng trước mặt, hành trình sẽ tới Lạng Sơn, Cao Bằng, hết Tây Bắc rồi song song với đường biên Việt - Lào, ngắm Tây Nguyên từ biên ải, theo mãi vào Nam Bộ và kết thúc hành trình của mình tại Kiên Giang. Đó sẽ là hành trình trọn cho một đời người.
Tất cả như dệt nên mùa Xuân trên những nẻo đường tuần tra nơi biên thùy xa xôi, khiến chúng tôi chẳng cần phải ngắm hoa đào nở, chẳng cần phải nghe rộn rã tiếng pháo hoa, cũng thấy mùa xuân đang ngập tràn trong lồng ngực mỗi người./...
Địa điểm : Cột mốc 1327 cũng là địa điểm không thể không đến khi đi du lịch Bình Liêu. Đây là cột mốc cuối cùng trên đường biên giới Việt - Trung thuộc huyện Bình Liêu theo hướng từ Tây sang Đông, được cắm trên đỉnh núi Thanh Long Lĩnh thuộc bản Phạt Chỉ, xã Đồng Văn. Đường biên giới từ sau Cột mốc 1327 là địa phận huyện Hải Hà trước khi kéo dài và kết thúc ở Cột mốc 1378 tại TP Móng Cái. Mốc 1327 được du khách ưu ái đặt cho tên “cột mốc thiên đường”, bởi từ vị trí cột mốc này có thể nhìn ra xung quanh núi rừng nơi vùng biên Đông Bắc hùng vĩ với mây trời lãng đãng.
Cách tới :
Cách dễ dàng nhất là hỏi bộ đội biên phòng ở cửa khẩu Hoành Mô đường đi. Qua chốt biên phòng một đoạn bạn rẽ phải chạy thẳng về hướng chợ Đồng Văn khoảng 20km đi men theo đường tuần tra biên giới hướng về phía Hải Hà - Móng Cái để tới cột mốc này.
Địa điểm : Nằm ở cửa khẩu Hoành Mô, bên bờ con Sông Đồng Mô là phụ lưu hợp thành của sông Tiên Yên. Sông chỉ là một đoạn dài 7 km, tên bên phía Trung Quốc là Dong Mo He (Đồng Mô hà), là biên giới tự nhiên ở huyện Bình Liêu với Trung Quốc. Tại đây đặt Cột mốc 1317 là mốc đôi cùng số, một bên bờ sông phía Việt Nam, một bên bờ sông phía Trung Quốc.
Bãi Đồng Mô từng là điểm tranh cãi phức tạp trong xác lập biên giới Việt Nam - Trung Quốc
Cách tới : Bạn chỉ cần đi thẳng vào cửa khẩu Hoành Mô, phái bên tay trái cửa khẩu sẽ thấy ngay mốc 1317 ở cạnh bờ sông.
Địa điểm : nằm trên điểm cao nhất của huyện Bình Liêu
Cách tới : từ cửa khẩu Hoành Mô rẽ vào đường tuần tra biên giới đi tới mốc 1305
Địa điểm : nằm trên đường tuần tra biên giới giáp với Lạng Sơn
Bản đồ Google MapsCách tới :
Đang online:
today:
yesterday:
total:
avg: