Theo học giả Đào Duy Anh, giao thừa là “Cũ giao lại, mới tiếp lấy” giữa năm cũ và năm mới. Với các nước ăn “Tết mặt trăng” hay “Tết Âm lịch” đây là thời khắc thiêng liêng với những nghi thức riêng tùy theo quốc gia. Việt Nam và các nước có nguồn gốc chữ viết tượng hình, gọi là tiếng Hán (như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc… đều có tết chung.
Nước nào cũng có đường biên giới riêng. Ngồi ở nước này mà đón giao thừa nước khác thì chỉ có thể là xem truyền hình hoặc đọc sách báo rồi tưởng tưởng.
Sông Nậm Thi và cầu Hồ Kiều (bên trái), sông Hồng (bên phải) nhìn từ phíá Hà Khẩu. Ảnh: ST.
Vậy mà có một nơi ở Việt Nam, cứ ngồi một chỗ đón luôn giao thừa hai nước. Đó là ở Lào Cai, thành phố ngã ba sông đúng nghĩa. Thành phố nép mình bên sông Hồng, nối hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Ngoài các phụ lưu chính như sông Đà, sông Lô, sông Nâm Na, sông Nho Quế… còn có các phụ lưu nhỏ hơn như Nậm Thi, còn gọi là sông Ngâu hay Ngưu.
Cầu Hồ Kiều bằng sắt, khai trương ngày 29/3/1898 nối Lào Cai và Vân Nam. Ảnh: ST. |
Nậm Thi cung cấp nước cho thành phố Lào Cai, là biên giới tự nhiên giữa Lào Cai và Vân Nam, vùng biên ải trọng yếu nhộn nhịp giao thương; chứng kiến bao dâu bể, thăng trầm của mối quan hệ Việt - Trung.
Thị trấn Hà Khẩu (Vân Nam) và thành phố Lào Cai chỉ cách nhau dòng sông Nậm Thi, được nối bởi cầu Hồ Kiều dài 138m và rộng 14m, khánh thành ngày 8/1/2001. Cầu cũ hẹp hơn, làm bằng sắt, hoạt động từ ngày 29/3/1898, trước cả cầu Long Biên, Hà Nội.
Việt Nam – Trung Quốc có 1.406 km đường biên giới chung với hàng chục cửa khẩu nhưng chỉ có Lào Cai - Hà Khẩu là có thể nói chuyện xuyên quốc gia. Nhà bên này cãi nhau, nhà bên kia thính tai là nghe rõ. Bên này làm gì, bên kia cũng thấy, nếu mắt tinh tường. Múi giờ cách nhau một tiếng, nên các hoạt động truyền thống như lễ - tết với nhiều điểm tương đồng, có thể tham gia cùng lúc cả hai bên.
Cầu Hồ Kiều mới, nhìn từ phía Việt Nam. |
Đây là điểm nhấn đặc biệt mà không nơi nào ở Việt Nam có được.
Lên Lào Cai, tôi thường tha thẩn dọc ngã ba sông, ngắm bên này Lào Cai, bên kia Hà Khẩu. Thích nhất là vào mấy quán nhâm nhi cà phê, nghe hai dòng sông thầm thì kể chuyện và ríu rít đùa vui. Sông Hồng cuối năm trong xanh tĩnh lặng, êm đềm như tiếng mẹ ru. Sông Nậm Thi ít xanh hơn nhưng cũng bảng lảng sương mù hoặc điệu đàng nắng sớm.
Năm hết, tết đến; dòng người hối hả ngược xuôi, tất bật; chẳng biết ai là Việt, ai là Hoa. Ngoài hoa kiểng, trái cây, thịt cá, bao lì xì, đi chùa…; Tết Việt có thêm bánh chưng; người Hoa thêm tục đốt pháo. Trung Quốc cấm đốt pháo tại các thành phố lớn, còn vùng quê thì tha hồ.
Hơn chục năm nay, việc cấm đốt pháo ở Việt Nam là nét văn hóa mới, tiết kiệm lại an toàn. Nhưng nhiều người ghiền màu đỏ, mê mùi thuốc pháo nên gần giao thừa là đứng bên này sông, nghe ké Hà Khẩu pháo đốt xả láng. Múi giờ Trung Quốc trước Việt Nam một tiếng, nên dân hai nước cùng được đón giao thừa của nhau.
Một góc thành phố Lào Cai và cầu Hồ Kiều về đêm, nhìn từ phía Hà Khẩu. Ảnh: ST.
Giao thừa Hà Khẩu thì trên trời rực rỡ pháo hoa, dưới đất đinh tai pháo trái. Thi nhau “đốt tiền”, càng nhiều càng tốt. Chỉ khổ người già và trẻ con, no tai vì tiếng nổ nhức óc, ngập phổi vì khói thuốc pháo và bụi đường. Giao thừa Lào Cai thì pháo hoa khoe sắc trên trời, người người trẩy hội xông đất, khoe sắc hái lộc, chúc xuân. Người Việt, người Hoa đều có thói quen viếng đền, chùa đầu năm mới.
Ở Lào Cai, khi giao thừa vừa sang là dòng người lũ lượt đổ về đền Thượng và đền Mẫu, bên cạnh dòng Nậm Thi, cầu quốc thái dân an, gia cang hạnh phúc, non sông vững bền.
Pháo nổ đinh tai nhức óc ở Hà Khẩu vào dịp giao thừa. Ảnh: ST.
Đền Mẫu thờ Bà Chúa Liễu Hạnh, xây dựng từ đầu thế kỷ XVIII. Đền thượng thờ Quốc công Tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, xây dựng từ cuối thế kỷ XVII trên gò Mai Lĩnh, còn gọi là núi Hỏa Hiệu.
Đây là vị trí chiến lược, dân quân nước Việt từng dùng lửa làm hiệu lệnh chống giặc. Tương truyền Đức Thánh Trần từng đến đây thị sát phòng tuyến chống quân Mông Cổ vào cuối thế kỷ XIII.
“Đứng trước đền Quốc Công, tôi hỏi các cụ già
Sao những cổng đền thường quay hướng Bắc.
Các cụ cười rung chòm râu bạc
Phía ấy, ngày xưa, thường có giặc!...”
Ngã ba sông bình yên và xinh đẹp này từng chứng kiến bao cuộc chiến tranh giữ nước oai hùng, khốc liệt và bi tráng, chống lại những kẻ thù từ bên kia sông. Không phải tự nhiên mà cha ông mình lại xây đền Thượng, thờ Quốc công Tiết chế; biểu tượng cho ý chí vệ quốc ngay cửa ngõ biên giới. Để cháu con, cứ mỗi dịp xuân về là “Ôn cố tri tân”, cầu cho giang sơn xã tắc bền vững.
Hơn 40 năm trước (1979), thành phố Lào Cai từng bị san bằng, đền Thượng bị phá hủy. “Sau bão giông là sóng yên, biển lặng”; thành phố và đền Thượng được xây dựng lại, “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Người Việt nhắc lại chuyện xưa để đề cao cảnh giác, hành xử đúng mực và trân trọng hòa bình. Người Hoa cũng không ai thích đánh nhau, bởi “Chiến tranh đâu phải trò đùa”. Cuộc chiến nào thì nhân dân cũng là người thất bại. Gặp những người dân Hà Khẩu, họ ngại nhắc lại chuyện xưa. Ai cũng mong muốn hòa bình để yên ổn làm ăn. Xảy ra xung đột thì bên nào cũng thiệt và người dân đều khổ. Người Việt, người Hoa đều có niềm tin và ước mơ tương tự.
Lễ hội đền Thượng thờ Hưng Đạo đại vương ở Lào Cai tổ chức vào dịp đầu xuân thay vì tháng 8 là nét văn hóa độc đáo. Trong dòng người lũ lượt về dự, có nhiều người Hoa. Quốc Công là vị thần chung của vùng biên ải. Người xưa từng truyền tụng “Nếu dân tộc Việt Nam sinh ra ở phương Bắc, thì vó ngựa quân Mông Cổ không thể dẫm nát châu Âu. Nếu Trần Quốc Tuấn sinh ra ở nhà Tống thì người Trung Quốc không bị quân Nguyên đô hộ cả trăm năm!”.
Cổng Tam quan và lối vào đền Thượng ở Lào Cai. Ảnh: ST.
Chiều tối 30, tản bộ dọc sông Hồng hay sông Nậm Thi, hoặc ngồi trong quán, chứng kiến sự giao thoa trời đất giữa năm cũ - mới và suy gẫm chuyện đời, thấy cuộc sống sao mà thú vị và đáng yêu như vậy.
Vào viếng đền Thượng, cầu mong một năm mới AN VUI, luôn BIẾT và DÁM SỐNG TỐT VỚI ĐỜI.